Đạo đức học

Về các nguyên tắc của lý tính thuần túy thực hành - §7 Quy luật cơ bản của lý tính thuần túy thực hành

 

VỀ CÁC NGUYÊN TẮC CỦA

LÝ TÍNH THUẦN TÚY THỰC HÀNH

1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11
12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22

 

IMMANUEL KANT (1724-1804)

Bùi Văn Nam Sơn dịch

 

 


Immanuel Kant. Phê phán lý tính thực hành. Bùi Văn Nam Sơn dịch và chú giải. Nxb. Tri thức, Hà Nội, 2007, tr. 56-59. | Phiên bản đăng trên triethoc.edu.vn do dịch giả gửi.


 

§7

QUY LUẬT CƠ BẢN CỦA

LÝ TÍNH THUẦN TÚY THỰC HÀNH

 

Hãy hành động sao cho châm ngôn của ý chí của bạn lúc nào cũng đồng thời có thể có giá trị như là nguyên tắc của một sự ban bố quy luật phổ biến.

 

NHẬN XÉT

Môn hình học thuần túy có những định đề như là những mệnh đề thực hành không chứa đựng điều gì khác hơn là giả định rằng ta có thể làm những gì khi được yêu cầu phải làm, và chúng chỉ là những mệnh đề duy nhất của hình học liên quan đến một hiện hữu hiện thực. Vậy, chúng là những quy tắc thực hành dưới một điều kiện nghi vấn (problematisch) của ý chí. Trong khi đó, ở đây, quy tắc muốn nói rằng: ta phải tuyệt đối tiến hành theo một cách nhất định nào đó. Cho nên, quy tắc thực hành là vô-điều kiện; do đó, được suy tưởng một cách tiên nghiệm như là mệnh đề thực hành nhất thiết (kategorisch), qua đó ý chí – tuyệt đối và trực tiếp – được quy định một cách khách quan (thông qua bản thân quy tắc thực hành mà nay với tư cách là quy luật), vì ở đây, lý tính thuần túy và tự thân mang tính thực hành (reine, an sich praktisch) là trực tiếp mang tính cách ban bố quy luật. Ý chí được suy tưởng như là độc lập với mọi điều kiện thường nghiệm, và, vì thế, với tư cách là ý chí thuần túy, được quy định bởi hình thức đơn thuần của quy luật, và cơ sở quy định này được xem như là điều kiện tối cao của mọi châm ngôn. Sự việc này thật lạ lùng và không có gì sánh nổi trong toàn bộ nhận thức thực hành còn lại. Bởi lẽ đây là một tư tưởng tiên nghiệm về một sự ban bố quy luật phổ biến khả hữu, – vì thế, vốn chỉ đơn thuần có tính nghi vấn – lại có tính mệnh lệnh vô-điều kiện như là một quy luật không hề vay mượn chút gì từ kinh nghiệm hay từ bất kỳ ý chí ngoại tại nào. Song, đây không phải là một điều lệnh mà ta phải làm điều gì đó hòng đạt được một kết quả mong muốn (vì như thế, ý chí ắt phụ thuộc vào các điều kiện vật lý), mà là một quy tắc quy định ý chí một cách tiên nghiệm chỉ trong chừng mực liên quan đến hình thức của những châm ngôn của ý chí; và, như thế, chí ít cũng không phải bất khả khi suy tưởng rằng: một quy luật, tuy chỉ áp dụng cho hình thức chủ quan của những nguyên tắc, lại được dùng như một cơ sở quy định nhờ vào hình thức khách quan của quy luật nói chung. Ta có thể gọi ý thức về quy luật cơ bản này là một Sự kiện (ein Factum) của lý tính, vì ta không thể suy diễn ra nó từ những dữ liệu có trước đó của lý tính, chẳng hạn từ ý thức về sự Tự do (vì ý thức này không được mang lại cho ta từ trước); trái lại, vì nó tự mình áp đặt lên ta như một mệnh đề tổng hợp tiên nghiệm, không dựa trên bất kỳ một trực quan nào, dù là thuần túy hay thường nghiệm. | Tất nhiên, nó ắt có thể là một mệnh đề phân tích nếu sự Tự do của ý chí được tiền-giả định, nhưng, tiền-giả định sự Tự do như là một khái niệm khẳng định, tích cực (positiv) ắt đòi hỏi phải có một trực quan trí tuệ [như của thần linh], là điều không được phép giả định ở đây. Song, nếu ta xem quy luật này như là đã được mang lại (gegeben), thì để tránh ngộ nhận, phải lưu ý rằng đây không phải là một sự kiện thường nghiệm, mà là Sự kiện-hiển nhiên duy nhất của lý tính thuần túy, qua đó, nó tự báo hiệu rằng bản thân mình là có tính ban bố quy luật một cách nguyên thủy (sic volo, sic jubeo)[1].

 

HỆ LUẬN


Lý tính thuần túy là thực hành do tự nơi chính mình (für sich allein praktisch) và mang lại (cho con người) một quy luật phổ biến được ta gọi là quy luật luân lý (das Sittengesetz).

 

NHẬN XÉT

“Sự kiện” (Faktum) vừa nêu là không thể phủ nhận được. Ta chỉ cần phân tích phán đoán của ta về tính hợp quy luật của những hành vi của mình, ta sẽ thấy ngay rằng, bất kể xu hướng có thể phản đối thế nào đi chăng nữa, thì, lý tính – vốn không thể bị đồi bại và có tính tự chế – lúc nào cũng đối chiếu châm ngôn của ý chí với ý chí thuần túy trong bất kỳ hành vi nào, nghĩa là, với chính mình, bằng cách xem chính mình như là có tính thực hành một cách tiên nghiệm. Bây giờ, nguyên tắc này của luân lý – chính tính phổ biến của sự ban bố quy luật biến nó thành cơ sở quy định tối cao về mô thức của ý chí, không xét đến mọi sự khác biệt chủ quan – được lý tính tuyên bố là một quy luật cho mọi hữu thể có lý tính, trong chừng mực mọi hữu thể ấy có một ý chí, nghĩa là, có một quan năng để quy định tính nhân quả của mình bằng sự hình dung về các quy tắc; và, do đó, trong chừng mực có năng lực hành động dựa theo các nguyên tắc, tức cũng là dựa theo các nguyên tắc thực hành tiên nghiệm (bởi chỉ có các nguyên tắc này mới có sự tất yếu mà lý tính đòi hỏi nơi một nguyên tắc). Cho nên, nguyên tắc này không hề hạn chế nơi con người mà thôi, trái lại, áp dụng vào mọi hữu thể hữu tận có lý tính và ý chí; vâng, thậm chí bao hàm cả Hữu thể-Vô tận với tư cách là Trí tuệ tối cao. Tuy nhiên, trong trường hợp trước [với con người và những hữu thể hữu tận], quy luật luân lý mang hình thức của một mệnh lệnh (Imperativ), bởi lẽ trong họ, với tư cách là những hữu thể có lý tính, tuy ta có thể tiền giả định họ có một ý chí thuần túy, song, là những tạo vật bị những nhu cầu và những động cơ cảm tính tác động, lại không có một ý chí thiêng liêng, tức không có được một ý chí mà không có châm ngôn hành động nào của nó đi ngược lại với quy luật luân lý. Do đó, với họ, quy luật luân lý là một Mệnh lệnh có tính nhất thiết (kategorisch), vì quy luật là vô-điều kiện; mối quan hệ giữa một ý chí như thế với quy luật là quan hệ lệ thuộc với tên gọi là bổn phận (Verbindlichkeit), bao hàm một sự cưỡng chế về hành vi, mặc dù là sự cưỡng chế bằng lý tính đơn thuần và bằng quy luật khách quan của nó; và hành vi này sở dĩ được gọi là nghĩa vụ (Pflicht), vì một ý chí lựa chọn (tự do) (freie Willkür) – vốn phục tùng những tác động sinh lý (dù không bị chúng quy định nên vẫn còn là tự do) – bao hàm một mong muốn bắt nguồn từ những nguyên nhân chủ quan, và vì thế, thường có thể đối lập lại với cơ sở quy định khách quan, thuần túy, nên cần đến một sự đề kháng của lý tính thực hành; sự đề kháng này có thể được gọi là một sự cưỡng chế nội tâm, nhưng có tính trí tuệ. Trong khi đó, nơi Trí tuệ tối cao [Thượng đế], sự tự do lựa chọn (Willkür) được quan niệm một cách đúng đắn là không thể có một châm ngôn nào nơi Ngài lại đồng thời không có khả năng trở thành một quy luật một cách khách quan; và quan niệm về tính thiêng liêng – thuộc về Ngài chính vì lý do đó – tuy không đặt Ngài đứng lên trên mọi quy luật thực hành, nhưng quả là đứng lên trên mọi quy luật thực hành có tính giới ước, và do đó, đứng lên trên bổn phận và nghĩa vụ. Tuy nhiên, tính thiêng liêng này [của ý chí] là một Ý niệm thực hành nhất thiết phải giữ vai trò như một Nguyên mẫu (Urbild) mà những hữu thể có lý tính nhưng hữu tận chỉ có thể vươn đến gần một cách vô tận; và là cái mà quy luật luân lý thuần túy – bản thân cũng được gọi là “thiêng liêng” là vì thế – phải trưng ra trước mắt mọi hữu thể ấy một cách thường xuyên và đúng đắn. | Điểm tối cao mà lý tính thực hành hữu tận [của con người] có thể vươn đến được là sự xác tín về sự tiến bộ đến vô tận của những châm ngôn của chính mình và của tính bất thoái chuyển của chúng đối với sự tiến lên không ngừng nghỉ. | Đó chính là đức hạnh (Tugend), và, đức hạnh – xét chí ít như một quan năng được sở đắc một cách tự nhiên – không bao giờ có thể là hoàn hảo, bởi lẽ sự đoan chắc trong trường hợp này không đời nào trở thành một sự xác tín tất nhiên (apodiktisch) được cả, và lại hết sức nguy hiểm nếu dẫn tới sự tin chắc [về sự hoàn hảo của đức hạnh].

 



[1] Latinh: từ câu: “Hoc volo, sic jubeo, sit pro ratione voluntas” (Juvenal, Sat. VI 223): “Ta muốn điều ấy nên ta ban bố mệnh lệnh như thế; thay vì lý tính, ở đây chính ý chí của ta có hiệu lực”. (N.D

 

 

 

Ý KIẾN BẠN ĐỌC

Mọi liên lạc và góp ý xin gửi về: dinhhongphuc2010@gmail.com.
Bản quyền: www.triethoc.edu.vn
Chịu trách nhiệm phát triển kỹ thuật: Công ty TNHH Công Nghệ Chuyển Giao Số Việt