Nhận thức luận | Khoa học luận

Suy nghĩ về chân lý/sự thật

 

SUY NGHĨ VỀ CHÂN LÝ/SỰ THẬT

1

2

3

4

5

6

 7

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

MORTIMER J. ADLER (1902-2001)

MAI SƠN dịch

 

Mortimer J. Adler.  Cùng suy nghĩ về những ý niệm lớn. Phạm Viên Phương và Mai Sơn dịch. Nes Education & Nxb. Hồng Đức, 2019, tr. 1-11. | Phiên bản đăng triethoc.edu.vn đã được sự cho phép của dịch giả Mai Sơn.


 

Hôm nay chúng ta sẽ xem xét Ý niệm lớn về Chân lý. Như cái đẹp kết nối với mỹ thuật trong trí óc chúng ta, như sự thiện hảo kết nối với tính cách con người và hành động của họ trong trí óc chúng ta, chân lý cũng kết nối với việc theo đuổi tri thức, với tất cả nỗ lực của con người để biết về khoa học, triết học, tôn giáo. Mọi cố gắng nghiêm túc và đúng đắn nhắm đến việc khám phá tìm kiếm đều bao gồm sự truy tầm chân lý.

Tôi chắc bạn đã nghe có người nói, “Tôi muốn biết sự thật về điều đó.” Tôi tự hỏi liệu bạn có dừng lại để nghĩ ra kiểu diễn đạt “biết sự thật” thì dư thừa thế nào không. Bởi vì chính ý nghĩ của từ “biết” là có trong đầu sự thật về đối tượng mà người ta cố gắng biết. Hoàn toàn hiển nhiên – không phải sao? – rằng “tri thức sai lầm” là không thể có. Nó sẽ không phải là tri thức nếu nó sai lầm. Và nói “tri thức đúng” là dư thừa. Biết, là có được sự thật. Và những kẻ nghi ngờ khả năng biết cái gì đó của con người là kẻ hoài nghi, do đó hoài nghi khả năng có được sự thật về cái gì đó của con người.

Nào, chủ nghĩa hoài nghi là một trong những thái độ mà con người thể hiện đối với vấn đề truy tầm chân lý. Còn có những thái độ khác. Để tôi tóm lược nhanh cho bạn một số những bất đồng cơ bản trong thái độ của con người đối với việc theo đuổi chân lý. Thứ nhất là thái độ mà tôi vừa đề cập đến, chủ nghĩa hoài nghi. Người hoài nghi nghĩ rằng không có gì đúng hoặc sai, hoặc mọi thứ đều vừa đúng vừa sai, rằng chúng ta không thể biết cái gì đúng hoặc cái gì sai, rằng đơn giản là chúng ta không có tri thức hoặc không sở hữu chân lý.

Quan điểm đối lập ở đây được chọn bởi những kẻ nghĩ rằng con người có thể tìm hiểu và có thể thành công trong sự truy vấn và có thể ít nhiều nắm bắt được sự thật về các sự vật. Ví dụ, để tôi đọc cho các bạn nghe những gì Freud phát biểu chống lại kẻ hoài nghi. Ông ta nói về kẻ hoài nghi hay phái hoài nghi là những kẻ theo chủ nghĩa hư vô vốn nói rằng không có cái gì gọi là chân lý/sự thật hoặc đó chỉ là sản phẩm của những nhu cầu hay dục vọng của chúng ta. Họ xem những quan điểm mà chúng ta chấp nhận đều hoàn toàn không quan trọng. Mọi quan điểm ấy đều vừa đúng vừa sai. Và không ai có quyền cáo buộc người khác có lỗi. Và Freud bình luận về điều này: “Nếu những gì chúng ta tin thực sự chỉ là một vấn đề không đáng quan tâm, thì chúng ta không có lý gì không xây dựng những chiếc cầu bằng giấy bồi thay vì bằng đá, hay tiêm một phần mười gam moóc-phin vào bệnh nhân thay vì một phần trăm, hay lấy hơi cay làm thuốc mê thay vì ê-te; nhưng bản thân những kẻ vô chính phủ trí thức” – ở đây Freud đang gọi kẻ hoài nghi là kẻ vô chính phủ trí thức – “nhưng bản thân những kẻ vô chính phủ trí thức sẽ mạnh mẽ phản bác mọi ứng dụng thực tế cho học thuyết của họ.”

Một thái độ khác đối với chân lý là chủ nghĩa tương đối. Và theo quan điểm này, một số điều vốn đúng với bạn lại là sai với tôi, và cái gì có thể đúng với tôi lại sai với bạn, và những gì từng đúng trong một giai đoạn lịch sử nào đó hay trong một nền văn hóa nào đó thì không còn đúng nữa. Ngược với lập trường này về tính tương đối của chân lý/sự thật đối với cá nhân hay nền văn hóa, ta có quan điểm đối lập cho rằng chân lý là khách quan, chứ không chủ quan và tương đối, rằng nó là tuyệt đối và bất khả biến dịch, lúc nào và ở đâu cũng vậy cho mọi người.

Ta còn có thái độ thực dụng đối với chân lý vốn phát biểu rằng chân lý cốt ở những ý niệm hay những tư tưởng của chúng ta mà chúng đem lại kết quả thực tế trong hành động, rằng chân lý cốt ở những sự vật hoạt động hiệu quả. Chân lý là cái gì hoạt động hiệu quả theo cách suy tư của chúng ta. Và ngược với kiểu nhấn mạnh vào hành động và các kết quả thực tế này như thước đo của chân lý, ta có những người nói rằng sự kiểm chứng thực tế trong hành động hay kinh nghiệm như thế không chút cần thiết cho việc nắm bắt chân lý của con người.

Đấy, những vấn đề nảy sinh từ những quan điểm đối lập cơ bản mà tôi vừa tóm lược cho bạn nhìn theo cách nào đó thì dễ hiểu và nhìn theo cách nào đó thì khó hiểu. Ở đây có hai câu hỏi khu biệt vẫn thường bị lẫn lộn. Một là câu hỏi, “Chân lý là gì?’ một câu hỏi đòi hỏi việc định nghĩa chân lý. Và câu hỏi kia – xin lắng nghe sự khác biệt – không phải “Chân lý là gì?” mà là “Cái gì là đúng trong một trường hợp cụ thể?” hoặc “Cái gì là đúng?” Nó là câu hỏi vốn yêu cầu chúng ta nói cho biết phát biểu này đúng hay phát biểu kia sai, và nêu lên các tiêu chí hay tiêu chuẩn để nhờ đó chúng ta phán xét một phát biểu nào đó hoặc đúng hoặc sai.

Chân lý được định nghĩa

Câu hỏi dễ này, hay ít ra là câu dễ hơn trong hai câu hỏi là, “Chân lý là gì?” Đây là câu hỏi tương truyền rằng do Phongxiô Philatô [Latinh, Pontius Pīlātus; Anh, Pontius Pilate; Pháp, Ponce Pilate] nêu ra, và đã không chờ câu trả lời. Nhưng nếu muốn, ông ta hẳn có thể chờ bởi vì ông ta sẽ không phải chờ quá lâu. Và câu hỏi khó, câu hỏi khó hơn nhiều, là câu hỏi còn lại, tức là, “Cái gì đúng?” Câu hỏi thứ hai này muốn biết bằng cách nào mà chúng ta có thể phán xét rằng điều gì đó là đúng hay sai.

Tôi muốn giải quyết câu hỏi dễ hơn trước, câu hỏi định nghĩa “chân lý”, câu hỏi , “Chân lý là gì, hay tự thân chân lý là gì?” Sau đó chúng ta sẽ đi từ đó đến câu hỏi khó hơn, câu hỏi về việc làm sao chúng ta biết một phát biểu là đúng hoặc sai. Và sau cùng nếu còn thời gian, tôi muốn giải quyết thật nhanh vấn đề tính tương đối và tính khả biến của chân lý.

Bạn đã có một ý niệm rõ về chân lý là gì. Hãy để tôi cho bạn thấy rằng bạn có điều đó bằng cách nhắc bạn nhớ lại sự phân biệt giữa nói thật và nói dối. Mọi người chúng ta đều đã từng nói dối. Mỗi người trong chúng ta đều biết cách nói dối. Và mọi người chúng ta biết sự khác biệt giữa nói dối và nói thật. Chúng ta biết rằng nếu chúng ta nói một điều gì đó là vậy khi nó không phải vậy, hoặc không phải vậy khi nó là vậy, thì chúng ta đang nói dối. Việc thay thế bằng không là hoặc không là bằng , tức là nói dối. Đó là lý do tại sao Josiah Royce định nghĩa kẻ nói dối là “một kẻ cố tình đặt nhầm những thuộc tính bản thể học.” Và bạn có thể thấy rằng nói dối là thiếu sự tương ứng giữa điều người ta nghĩ và điều người ta nói.

Khi một người tuyên thệ trong phòng xử án và nói toàn bộ sự thật và không gì ngoài sự thật, thì việc mà người tuyên thệ phải làm là đưa vào lời nói một cách trung thành những gì mình nghĩ, để cho không có sự bất nhất giữa lời nói và suy nghĩ. Điều này không hề hàm ý rằng khi một người phát biểu một cách thành thực thì nhất thiết phải suy ra rằng những gì anh ta nghĩ là đúng trong thực tế. Vì một người mà phát biểu “một cách thành thực” vẫn có thể bị nhầm lẫn; anh ta tưởng mình biết điều gì đó nhưng trong thực tế anh ta không biết. Nhưng tôi muốn bạn xem xét câu hỏi này: Liệu một người có thể cố tình nói dối mà tuyệt không hề nghĩ rằng anh ta biết điều gì đó là đúng thật, rằng anh ta đã nắm bắt ít nhiều sự thật không? Liệu anh ta có thể nói dối nếu anh ta không nghĩ rằng mình đã nắm được phần sự thật nào đó. Đây là câu hỏi xác đáng để kẻ hoài nghi xem xét.

Đấy, có một kiểu sự thật khác với việc nói sự thật trái với việc nói dối vốn tồn tại trong sự giao tiếp của con người, con người nói chuyện với nhau. Và khi những cá nhân nói chuyện với nhau và từ ngữ trao qua đổi lại, thì có thể những từ ngữ đó được họ dùng theo cách mà họ có cùng những ý niệm trong đầu. Hoặc đôi khi, khi sự giao tiếp thất bại, có thể họ dùng những từ ngữ giống nhau nhưng lại có những ý niệm rất khác nhau trong đầu.

 Chúng ta nói rằng sự thật nằm ở giữa, có một sự thật về nhận thức hay một sự thật trong giao tiếp khi việc sử dụng từ ngữ làm cho trí óc của họ tương ứng với nhau. Khi có sự tương ứng thông qua ngôn ngữ họ dùng giữa điều người này nghĩ với điều người khác nghĩ, thì có một sự thật trong giao tiếp. Ở đây cần một lần nữa lưu ý rằng, có sự tương ứng giữa trí óc này và trí óc khác như trong trường hợp đầu có sự tương ứng giữa điều người này nghĩ với điều người kia nói. Và chỉ khi có sự tương ứng đó, bạn mới có thể nói rằng có sự thật trong sự giao tiếp của họ.

Vậy thì, hai sự suy xét về việc nói sự thật và sự thật trong giao tiếp giữa hai con người đưa chúng ta đến câu hỏi khó khăn, chuẩn bị cho chúng ta một cách thức định nghĩa sự thật là gì trong các phát biểu về thế giới, khi chúng ta đưa ra những phát biểu rằng cái gì đúng là thế hay không phải là thế.

Và có lẽ tôi cần tóm tắt những gì tôi vừa nói để có thể đưa các bạn đến vấn đề này với lợi thế đã hiểu được những điểm đơn giản mà chúng ta đã cùng nhau xem xét. Hãy nhớ rằng trong khi nói sự thật, để nói sự thật, chúng ta phải đạt được sự tương ứng giữa những từ ngữ của chúng ta, lời nói của chúng ta, và tư tưởng của chúng ta. Chúng ta nói một cách thành thực khi lời nói của chúng ta tương ứng hay phù hợp với những gì chúng ta nghĩ. Và có sự thật trong giao tiếp giữa con người khi, qua việc sử dụng từ ngữ, trí óc của họ tương ứng với nhau. Những ý tưởng trong trí óc người này tương ứng với những ý tưởng trong đầu người kia. Và cuối cùng, trường hợp thứ ba và đầy khó khăn là gì? Đó là trường hợp mà trong đó có sự tương ứng giữa trí óc và thực tại, thế giới chúng ta đang sống. Và khi có loại tương ứng này giữa trí óc và thực tại, thì trong trí óc có sự thật về thế giới mà nó đang cố gắng nhận biết hoặc hiểu.

Vấn đề dễ về chân lý/sự thật

Định nghĩa này về sự thật/chân lý như sự tương ứng giữa trí óc và thực tại, theo tôi, là một định nghĩa nhìn chung được đồng thuận trong tư tưởng Âu châu. Tôi muốn trích đọc cho các bạn nghe một số câu nói của các tác gia lớn từ thời cổ đại, thời Trung cổ, và thời hiện đại, để bạn thấy tất cả họ đã nói giống nhau như thế nào khi định nghĩa chân lý/sự thật như một loại tương ứng giữa trí óc và thực tại.

Tôi sẽ bắt đầu với Plátōn [Anh, Plato; Pháp, Platon], tiền bối của toàn bộ tư tưởng Âu châu theo một nghĩa nào đó. Plátōn nói, “Một mệnh đề sai,” tức là, một phát biểu sai, “là một mệnh đề vốn khẳng định sự không hiện hữu của các sự vật vốn hiện hữu hay sự hiện hữu của các sự vật vốn không hiện hữu.” Và Aristotélēs [Anh, Aristotle; Pháp, Aristote] mở rộng ý đó ra một chút. Hãy lắng nghe kỹ phát biểu tiếp theo này. Aristotélēs nói, “Nói về điều gì tồn tại là nó tồn tại hay về điều gì không tồn tại là nó không tồn tại, là nói sự thực hay suy nghĩ một cách đúng thực; cũng vậy, khi nói về điều gì tồn tại là không tồn tại hay nói về điều gì không tồn tại là tồn tại, là nói dối, nói sai.” Hãy nhớ lại nhận xét của Josiah Royce, rằng kẻ nói dối là kẻ đặt nhầm những thuộc tính bản thể luận. Còn Tommaso d’Aquino [Anh, Thomas Aquinas; Pháp, Thomas d’Aquin], trong hậu cảnh truyền thống của Plátōn và Aristotélēs, nói gọn trong một câu rằng chân lý trong trí óc con người hệ tại ở sự phù hợp của trí óc với thực tại mà nó hiện hữu trong đó.

Sau này, trong thời hiện đại, chúng ta được nghe John Locke nói rằng, “Tuy từ ngữ của chúng ta không biểu thị cái gì khác ngoài những ý niệm của chúng ta, dù được thiết định bởi ý niệm để biểu thị mọi sự vật, nhưng chân lý mà chúng chứa đựng chỉ có thể là lời nói khi chúng đại diện cho những ý niệm trong trí óc vốn không hòa hợp với thực tại của các sự vật.”

Và rồi trong thế kỷ XX một triết gia Mỹ tên là William James rất quan tâm đến học thuyết về chân lý. Thật vậy, ông đã viết hẳn một cuốn sách có tựa đề The Meaning of Truth [Ý nghĩa của chân lý] và như tất cả chúng ta đều biết ông đã dành phần lớn cuộc đời mình thao thức về toàn thể vấn đề chân lý. James – và nhân tiện cũng nói thêm ông là nhà tư tưởng dụng hành (pragmatist) hàng đầu, đã phát triển một lý thuyết dụng hành về chân lý – dựa vào quan điểm dụng hành cho rằng một ý niệm thể hiện thành công là dấu hiệu cho chân lý của nó, nhắc nhở những kẻ phê phán ông rằng đây không phải là định nghĩa mới về bản chất của chân lý. Xin lưu ý rằng hoạt động của ý niệm là dấu hiệu cho chân lý của nó; đây không phải là định nghĩa mới về bản chất của chân lý, nhưng chỉ là một diễn giải mới cho thấy ý nghĩa là gì khi nói chân lý của các ý niệm của ta hệ tại ở sự nhất trí của chúng với thực tại trong khi sự sai dối của chúng nghĩa là sự bất đồng của chúng với thực tại. “Các nhà dụng hành và các nhà duy trí,” James nói tiếp, “cả hai đều chấp nhận định nghĩa này, cho đó là tất nhiên.” Nhưng ông cũng chỉ ra rằng học thuyết về chân lý chỉ là bắt đầu, thay vì chấm dứt, với định nghĩa đơn giản về chân lý như là sự nhất trí với thực tại; nhiều vấn đề vẫn còn đó.

Dữ kiện đáng chú ý ở đây là mức độ nhất trí qua nhiều thế kỷ giữa các triết gia với những niềm tin rất khác nhau về bản chất của chân lý. Đó là một sự nhất trí rất đáng kể. Bạn có thể hỏi, “Vậy thì còn có vấn đề chân lý nào để cho chúng ta xem xét không?” Nếu họ nhất trí như thế, vấn đề chân lý quấy rầy họ và làm họ quan tâm nhiều đến thế là gì? Các triết gia tranh cãi về điều gì liên quan đến chân lý, không phải về chân lý là gì, mà về cái gì là đúng thực? Vấn đề họ quan tâm là làm thế nào chúng ta phân biệt một cái gì đang nói đến là đúng hay sai. Và đó là vấn đề khó.

Với câu hỏi “Chân lý là gì” chúng ta hãy tạm thời chấp nhận rằng chân lý là sự tương ứng của cái này với cái khác. Trong trí óc chân lý là sự tương ứng giữa trí óc với thực tại, hoặc chân lý của lời nói chúng ta là sự tương ứng giữa điều ta nói với điều ta nghĩ. Nếu đúng như vậy, thì trong vấn đề đơn giản của việc nói sự thực mọi người, ngoại trừ kẻ nói dối bệnh hoạn, đều có thể biết trực tiếp liệu lời nói của chính anh ta có biểu đạt trung thành những gì anh ta nghĩ không. Sự tương ứng đó giữa lời nói của tôi và những tư tưởng của tôi là cái gì đó mà bản thân tôi có thể trực tiếp kiểm tra. Tôi không gặp vấn đề gì trong việc xem xét lời nói của tôi có tương ứng với tư tưởng của tôi hay không.

Và trong trường hợp giao tiếp giữa hai con người, mà tất nhiên là khó khăn hơn một chút, nhưng vẫn có thể để cho hai con người ấy, bằng cách kiên nhẫn và chịu khó nói chuyện với nhau, khám phá ra họ có đạt được sự tương ứng giữa những gì họ nghĩ hay không. Họ đặt những câu hỏi cho nhau, họ kiểm tra việc sử dụng từ ngữ của nhau. Và bằng nỗ lực thận trọng, kiên nhẫn, và có phương pháp này họ có thể tìm ra trong nỗ lực giao tiếp của họ xem có một sự tương ứng giữa trí óc của họ hay không, và tương tự, họ có được chân lý trong sự giao tiếp của mình không.

Tôi sẽ cho các bạn thấy hai trường hợp này trong một chỉ dẫn. Trong trường hợp đơn giản, nói sự thực, ở đó lời nói tương ứng với tư tưởng, và những gì tôi nói tương ứng với những gì tôi nghĩ, thì không có khó khăn gì trong việc tìm ra sự tương ứng ngay lập tức, bởi vì nó nằm trong trí óc của tôi. Tôi hiểu điều tôi nói, tôi hiểu những gì tôi nghĩ, và tôi có thể thấy sự tương ứng giữa hai điều này, có phải không? Hoặc khi tôi nói dối, tôi biết rất rõ rằng những gì tôi nói không tương ứng với những gì tôi nghĩ.

Và đây là trường hợp khó khăn hơn một chút về hai người, ab, trí óc a và trí óc b. Lời nói kết nối họ. Họ đang giao tiếp. Và qua lời nói họ có thể biết tư tưởng của họ có giống nhau không, có sự giao tiếp trong tư tưởng không, họ có truyền đạt tư tưởng cho nhau không, họ có tư tưởng chung không, những ý niệm của người này có tương ứng với những ý niệm hay tư tưởng của người kia không. Và điều này, một lần nữa, có thể xảy ra vì họ nói chuyện được với nhau và kiểm tra nhau, kiểm tra sự hiện hữu hay vắng mặt của sự tương ứng giữa hai trí óc của họ.

Vấn đề khó về chân lý/ sự thật

Bây giờ, ta cùng khảo sát một trường hợp thực sự khó khăn. Trường hợp khó khăn này là trường hợp mà trong đó bạn hỏi, Làm thế nào để tôi kiểm tra sự tương ứng giữa trí óc tôi với thực tại, thế giới này, để xem những gì tôi nghĩ có đúng không? Tôi sẽ cho các bạn thấy tại sao đây lại là một trường hợp khó khăn. Chúng ta có trí óc và chúng ta có thực tại; và trí óc đang cố gắng nhận biết thực tại. Trong trí óc là tư tưởng. Thực tại gồm có các hiện hữu. Và những hiện hữu đó là những sự vật được nắm bắt hay được nhận biết. Nhưng tư tưởng, “Thực tại đó có nằm trong trí óc tôi không?”, tư tưởng đó là thực tại vốn được nắm bắt. Trong trí óc tôi không có hai thứ, tư tưởng tôi và đối tượng của tư tưởng tôi. Bất kỳ cái gì ở trong trí óc tôi là ở trong trí óc tôi, và tôi không thể biết bất kỳ “sự nắm bắt thực tại” nào cả. Tôi không có cách nào để nắm giữ thực tại ngoại trừ bằng cách nhận biết nó. Nhưng rồi tôi không thể kiểm tra tôi có biết nó hay không bằng cách so sánh điều tôi biết với điều tôi đang cố gắng biết. Bạn không thấy rằng trong trường hợp này bạn không thể so sánh sao? Không có cách nào để kiểm tra trực tiếp giữa hai sự việc vốn được đòi hỏi là tương ứng.

Để tôi giải thích cho bạn theo một cách khác. Tôi biểu đạt những tư tưởng của tôi trong các phát biểu hay trong các mệnh đề. Thực tại bao gồm những dữ kiện mà tôi đang cố gắng tạo ra các mệnh đề về chúng. Và những mệnh đề là đúng nếu chúng tương ứng với những dữ kiện đó. Và những dữ kiện đó là những sự vật được nhận biết. Những dữ kiện không như đã được biết trước rồi, mà là sẽ được nhận biết. Các mệnh đề là những dữ kiện như tôi nghĩ tôi biết chúng. Không hề có chuyện kiểu như, bên tay này tôi có các mệnh đề và bên tay kia tôi có các dữ kiện và có thể nhìn chúng và nói, “Ồ, tôi hiểu rồi. Các mệnh đề của tôi tương ứng với các dữ kiện,” bởi vì tôi không có sự nắm bắt các dữ kiện ngoại trừ trong các mệnh đề của riêng tôi về chúng. Bởi thế mà tôi không có cách nào để so sánh trực tiếp giữa các mệnh đề của tôi và các dữ kiện mà chúng đang muốn nêu lên. Cho nên không có cách nào trực tiếp hay ngay cả gián tiếp để cho biết điều tôi nghĩ, điều tôi nói, các mệnh đề và các phán đoán của tôi, có tương ứng với cách các sự vật tồn tại hay không.

Và không có thậm chí một phương cách gián tiếp để làm việc này bởi vì tôi không thể đặt những câu hỏi cho “thực tại” theo cách tôi có thể đặt câu hỏi cho người khác và biết được điều tôi nghĩ có đồng nhất với điều anh ta nghĩ hay không. Tôi không thể đặt những câu hỏi cho thực tại. Hoặc, tôi có thể nêu ra những câu hỏi, nhưng tôi không thể nhận được câu trả lời nào. Thực tại sẽ không nói lại với tôi. Và vì thế không có cách nào để có được, qua giao tiếp, sự kiểm tra trực tiếp hoặc gián tiếp xem những gì tôi nghĩ, những gì ở trong trí tôi, có tương ứng với thực tại và phương cách các sự vật tồn tại không. Đó là vấn đề của chân lý. Không phải là vấn đề biết được sự thật là gì, nhưng là vấn đề xác định xem những gì tôi nghĩ là đúng có thực là đúng hay không, nếu sự thật cốt ở sự tương ứng giữa trí óc của tôi với thực tại.

Sự nhất quán là cần thiết cho chân lý

Ta có bước khởi đầu của một giải pháp cho vấn đề này. Ở trong phạm vi trí óc tôi, ta hãy giả sử tôi nêu lên hai phát biểu. Cho phép tôi gọi một phát biểu là mệnh đề p và một phát biểu là mệnh đề q. Chúng là hai phát biểu tách biệt. Bất cứ cái gì bạn muốn nói. Giả sử hai phát biểu này mâu thuẫn. Giả sử chúng là hai phát biểu kiểu này: “aba không phải là b,” hay “hai cộng hai bằng bốn và hai cộng hai không bằng bốn.” Giờ thì chúng ta biết rằng cả hai không thể đều đúng, phải không? Trên thực tế, một phát biểu chắc chắn đúng và một phát biểu chắc chắn sai. Và sự kiểm tra về tính mâu thuẫn, hay phi mâu thuẫn, hay nhất quán này, là khởi đầu của một dấu hiệu bên trong trí óc chúng ta, chỉ ở trong phạm vi trí óc chúng ta và không có gì ngoài những sự việc mà chúng ta nghĩ, những tư tưởng của riêng chúng ta; chúng ta biết rằng nếu chúng ta tự mâu thuẫn hay nếu chúng ta nghĩ những sự việc mâu thuẫn, thì chúng ta đang lạc mất chân lý ở đâu đó. Và đây là một điểm thú vị, bởi vì để cho sự nhất quán hay sự mạch lạc hay không có mâu thuẫn là dấu hiệu của chân lý và sai lầm, hay là một sự khó khăn về chân lý và sai lầm, nó phải tự tiền giả định rằng có thể có một sự tương ứng giữa trí óc và thực tại. Vì nếu thực tại đầy những mâu thuẫn, thì sự có mặt của những mâu thuẫn trong trí óc sẽ không là cách kiểm tra hay dấu hiệu của chân lý hay sai lầm. Chỉ khi thực tại không mâu thuẫn, khi trong thế giới tồn tại không có những mâu thuẫn, chúng ta mới tin chắc vào suy nghĩ rằng khi tìm thấy mâu thuẫn trong trí óc mình, thì thế nào chúng ta cũng tiếp xúc với một điều là thật và một điều là sai.

Hầu hết các triết gia không thỏa mãn với dấu hiệu này của chân lý. Tôi nói hầu hết, vì có những ngoại lệ; vài triết gia nghĩ dấu hiệu này là quá đủ. Ví dụ, Descartes cho rằng khi những ý tưởng của chúng ta rõ ràng và minh bạch, khi chúng quá rõ và minh bạch đến độ chúng thoát khỏi mọi mâu thuẫn, thì chúng ta biết chúng ta có chân lý, thì chúng ta chắc chắn, chúng ta xác quyết sự sở hữu chân lý của chúng ta. Và Spinoza nói, chẳng hạn, “Còn cái gì rõ ràng hơn, chắc chắn hơn một ý niệm đúng thực làm tiêu chuẩn cho chân lý? Giống như ánh sáng vừa hiển lộ chính nó và bóng tối, chân lý cũng là tiêu chuẩn của chính nó và của các tư tưởng.”

Nhưng như thế không đủ, tôi nghĩ. Và tôi muốn cho các bạn thấy tại sao như vậy. Giả sử hai mệnh đề này mâu thuẫn. Vậy lúc đó chúng ta biết rằng một mệnh đề ắt phải đúng và một mệnh đề ắt phải sai. Nhưng mệnh đề nào? Mệnh đề nào trong đó cũng có thể đúng, mệnh đề nào cũng có thể sai; chúng ta không biết mệnh đề nào đúng hay sai qua việc biết rằng tình trạng mâu thuẫn của chúng làm cho một trong hai mệnh đề đúng và một trong hai sai. Làm sao chúng ta giải quyết vấn đề đó? Chúng ta có thể giải quyết vấn đề đó chỉ khi trong trí óc chúng ta có một vài mệnh đề hay nguyên tắc được cho là đúng, chúng ta xác quyết là đúng; để rồi những mệnh đề hay nguyên tắc này có thể được dùng như thước đo hay tiêu chuẩn của chân lý trong các mệnh đề khác. Nếu, ví dụ, chúng ta tuyệt đối chắc rằng các mệnh đề p là đúng, thì chúng ta sẽ biết rằng nếu q mâu thuẫn với nó, q sai. Nhưng chúng ta phải biết trước rằng p thì đúng. Và chúng ta không thể biết điều đó chỉ thông qua dữ kiện rằng p mâu thuẫn với q. Để giải quyết vấn đề này trọn vẹn chúng ta phải có sự tin chắc vào một số mệnh đề, coi chúng là đúng, và dùng chúng để đo lường chân lý và sai lầm trong các mệnh đề khác.

Tôi nghĩ, Aristotélēs làm sáng tỏ điểm này khi ông nói, “Trí óc con người sử dụng hai loại nguyên tắc. Có những chân lý bất khả nghi của nhận thức vốn là các tiên đề (axiom) hay các chân lý đương nhiên và có những chân lý của tri giác, những chân lý mà chúng ta biết, chúng ta sở hữu, khi chúng ta lĩnh hội các vấn đề sự kiện, ví như, “Đây là mảnh giấy trong tay tôi,” hay “Đây là cuốn sách, tôi thấy cuốn sách, tôi ngắm nhìn cuốn sách.” Đó là vấn đề sự kiện tôi không thể nghi ngờ được, giống như chân lý đương nhiên rằng toàn thể thì lớn hơn bộ phận là một chân lý của nhận thức của tôi về điều mà tôi không thể nào nghi ngờ.

Hiện nay tất cả những gì mà người hiện đại thêm vào cho câu chuyện này là một logic tinh vi, được diễn giải cẩn thận về các phương pháp xác nhận thực nghiệm. Nhưng mọi chân lý đều có thể được kiểm tra bằng cách tìm xem có cái gì khác nhất trí với các sự kiện mà chúng ta biết nhờ quan sát hay nhất trí với các nguyên tắc vốn hiển nhiên đối với nhận thức của chúng ta hay không. Với hai cách kiểm tra ở hai cực trái nhau như thế này, chúng ta có thể xác định bất kỳ điều gì khác chúng ta nghĩ thì có đúng hay không bằng cách nhìn thấy rằng nó không mâu thuẫn với điều này hoặc điều nọ. Tôi nghĩ nếu bạn ngẫm nghĩ về những gì tôi vừa nói, bạn sẽ thấy rằng nó bắt đầu giải quyết vấn đề bằng cách nào chúng ta xác định được một phát biểu nào đó là đúng hay sai xét về cách phát biểu đó phù hợp hay không phù hợp với các chân lý đương nhiên hay các chân lý được tri giác trực tiếp về những vấn đề sự kiện.

Tính bất biến của chân lý

Tôi nghĩ thời gian sắp hết rồi, nhưng tôi muốn dành thêm ít phút nữa cho vấn đề rất thú vị về tính bất biến của chân lý. Chân lý là vĩnh cửu hay nó có thể thay đổi? Hiển nhiên rằng con người vẫn thay đổi ý kiến của mình, rằng loài người trong suốt bao thế kỷ đã đi từ tri thức đến sai lầm hay từ sai lầm đến tri thức trong ý kiến của mình. Nhưng đây là sự thay đổi trong trí óc con người chứ không phải là sự thay đổi trong chân lý hay trong cái đúng. Ví dụ, ý kiến cho rằng trái đất thì phẳng, nếu nó đã có lúc sai, nó luôn luôn sai. Và ý kiến ngược lại, rằng trái đất trong đó chúng ta sống thì tròn, nếu nó đã có lúc đúng, nó luôn luôn đúng. Việc con người thay đổi tâm trí của mình về chuyện trái đất phẳng hay tròn không làm cho chân lý của bản thân vấn đề thay đổi chút nào cả.

Nhưng bạn có thể nói với tôi, Giả sử rằng ngày mai hay sang năm trái đất sẽ tự thay đổi và bỗng nhiên trở nên phẳng hay hình thuôn hay một thứ gì khác, vậy mệnh đề cho rằng trái đất thì tròn không trở nên sai lầm sao? Không, bởi vì nếu tôi đủ cẩn thận và chính xác, tôi sẽ nói rằng từ khởi nguyên cho đến năm nay, trái đất thì tròn. Để cho nếu năm tới trái đất thay đổi hình dạng của nó, mệnh đề của tôi sẽ vẫn đúng, bởi vì nó sẽ luôn đúng rằng cho đến tận năm nay trái đất vẫn tròn. Từ đó tôi nghĩ thật hợp lý khi nói rằng bản thân chân lý là bất biến, cho dù chúng ta, với tư cách những con người, không sở hữu chân lý đó một cách bất di bất dịch trong suy nghĩ của mình.

 

 

Ý KIẾN BẠN ĐỌC

Mọi liên lạc và góp ý xin gửi về: dinhhongphuc2010@gmail.com.
Bản quyền: www.triethoc.edu.vn
Chịu trách nhiệm phát triển kỹ thuật: Công ty TNHH Công Nghệ Chuyển Giao Số Việt