Siêu hình học

Đơn tử luận như là siêu hình học

 

ĐƠN TỬ LUẬN NHƯ LÀ SIÊU HÌNH HỌC

 

JOHANNES HIRSCHBERGER (1900-1990)

Vũ Hoàng Lan Phương dịch

 


Vũ Hoàng Lan Phương trích dịch từ The History of Philosophy. USA: The Bruce Publising Company, 1959. | Bùi Văn Nam Sơn hiệu đính. | Phiên bản đăng trên triethoc.edu.vn do dịch giả gửi.


 

Định nghĩa mới về bản thể

Bằng việc so sánh trích dẫn trên với những gì Leibniz đã nói trong phần mở đầu tác phẩm Hệ thống mới của Tự nhiên và Sự giao tiếp của những Bản thể của ông, ta dễ dàng thấy được Leibniz đã khéo léo như thế nào trong việc hòa giải giữa cái cũ và cái mới. Cụ thể, ta sẽ hiểu được làm cách nào ông vượt qua những khó khăn nảy sinh từ định nghĩa về bản thể được ủng hộ bởi Descartes, thuyết Cơ hội tương hợp và Spinoza, đồng thời vẫn giữ lại những đóng góp của họ. Chính những suy xét sau đây đã trực tiếp dẫn dắt Leibniz đến chỗ phát biểu về khái niệm đơn tử của ông. Descartes đã nói rằng vật thể – và Leibniz công kích vấn đề về bản thể từ phương diện này – là quảng tính (extension/ Ausdehnung). Locke đã bổ sung tính cách cứng chắc (solidity) vào quảng tính nhằm làm cho khái niệm về vật thể đủ rộng để bao gồm cả những vật thể vật lý học cũng như những vật thể toán học. Leibniz khẳng định rằng thực tại là cái gì còn nhiều hơn thế nữa; nó là hoạt động, là lực. Vì lý do này, ông định nghĩa bản thể như là “hữu thể có khả năng hành động” (un être capable d'action) (Những Nguyên tắc của Tự nhiên và Ân sủng, 1).

Đơn tử

Tiếp theo, Leibniz khẳng định rằng bản thể là “đơn giản hoặc phức hợp. Bản thể đơn giản là bản thể không có các bộ phận. Còn bản thể phức hợp là sự kết hợp của những bản thể đơn giản” (sđd). Do đó, bất kỳ vật thể nào, bất kỳ đơn vị hoạt động nào đều luôn là tổng số của các lực. Nếu tổng số này, tức bản thể phức hợp này, là thực tồn, thì những lực cơ bản hay những bản thể đơn giản được chứa đựng bên trong nó cũng phải thực tồn.

Nếu ta xem những thành tố tối hậu cấu tạo nên thực tại là cái gì có quảng tính, như Descartes đã quan niệm, thì ta ắt sẽ không bao giờ thực sự đạt đến những thành tố tối hậu và thực tồn, vì mọi cái có quảng tính luôn có khả năng bị phân chia, do đó, nó không phải là cái tối hậu thực sự (Đơn tử luận, 3). Toàn bộ truyền thống triết học kể từ Descartes đã khẳng định rằng chỉ có thực tại tinh thần (bản thể tư duy/ res cogitans) hiện hữu khi thực tại có quảng tính (bản thể có quảng tính/ res extensa) bị phủ nhận. Do đó, Leibniz lập luận rằng những thành tố tối hậu cấu thành thực tại phải có tính cách tinh thần/ tâm lý (psychic), vì ông đã chỉ ra [ở trên] rằng những yếu tố này không thể có quảng tính. Yếu tố tinh thần này là cái gì thực tồn – gợi ta nhớ đến cái Tôi tư duy của Descartes – không thể bị phân chia, và đồng thời là cái tối hậu, vì nó không có quảng tính. Theo dòng tư tưởng này, Leibniz đạt đến cái ông gọi là các đơn tử: “Những đơn tử này là những nguyên tử đích thực của tự nhiên, và nói ngắn, chúng là những yếu tố của mọi sự vật” (Sđd., 3; Wiener ed., trang 533). Mặc dù ta cũng có thể gọi những đơn tử này là “những linh hồn”, nhưng Leibniz thích nói về chúng như là những chung tố, hay tốt hơn nữa là “những lực nguyên thủy”. Ông thích gọi chúng như vậy hơn gọi là linh hồn vì ta đã quen sử dụng thuật ngữ “linh hồn” theo nghĩa hạn chế hơn, đó là theo nghĩa về một tồn tại sở hữu những biểu tượng có ý thức, vốn không thể áp dụng cho mọi đơn tử.

Từ việc đơn tử không có quảng tính nhưng cũng không phải là một điểm toán học mà là cái gì có tính cách tinh thần, Leibniz kết luận rằng những đơn tử không thể biến mất hay chết đi. Chúng là những tồn tại tuyệt đối đơn giản nên không thể bị phân chia thành những bộ phận. Chúng cũng không thể đi vào hiện hữu như là kết quả của sự hợp nhất những bộ phận xác định. Các đơn tử do Thượng đế trực tiếp sáng tạo nên và chỉ có thể bị hủy diệt bởi Ngài mà thôi. Một lần nữa, những đơn tử không thể hoạt động dựa vào những gì đến từ bên ngoài. Vì chúng đơn giản một cách tuyệt đối nên không có bất cứ điều gì có thể thâm nhập vào chúng: từ những hình ảnh, những loài hay giống, các xung động, sự kích thích của những giác quan, hay bất cứ cái gì con người trước giờ có thể nghĩ đến là có khả năng thâm nhập gây tác động. “Các đơn tử không có những cửa sổ để bất cứ thứ gì có thể thâm nhập hay rời đi thông qua đó” (Sđd., 71; Wiener ed., trang 534). Toàn bộ hoạt động của chúng phát sinh một cách tự khởi. Điều này là khả hữu vì chúng là bản thể, và là bản thể thì có nghĩa là có tính tự trị. Sự tự trị tự khởi của các bản thể đã được trình bày trước đó trong tiên đề của phái Kinh viện: những hành động chính là những bản thể (actionei sunt suppositorum) – tiên đề này được Leibniz trích dẫn trong tác phẩm Luận văn về Siêu hình học của ông – và nó đã được giả định bởi Descartes và Spinoza. Do đó, đơn tử là cái gì có tính mô thức và năng động, là một tồn tại (esse) mà hành động (agere) bắt nguồn từ nó phù hợp với mô thức hay bản chất của nó. “Vì vậy, điều cần thiết là gợi lại và, có thể nói, là khôi phục những mô thức có tính bản thể đã bị hạ thấp giá trị trong thời đại ngày nay” (Hệ thống mới của Tự nhiên và Sự Giao tiếp của những Bản thể).

Vì thực tại của đơn tử có tính tinh thần nên hiệu lực của nó thể hiện ở hoạt động tinh thần, trong “những tri giác (perceptions) của nó (tức là những biểu tượng trong cái đơn giản của cái phức hợp hay của những gì ở bên ngoài nó) và những ham muốn (appetitions) của nó (tức là những xu hướng chuyển từ tri giác này sang tri giác khác của nó) (Những nguyên tắc của Tự nhiên và Ân sủng, 2; Wiener ed., trang 523). Năng lực biểu tượng của đơn tử không thể được kích hoạt từ bên ngoài, vì đơn tử là bản thể và do đó “không có cửa sổ nào cả”. Vì vậy, đơn tử phải bao hàm toàn bộ thế giới trong những biểu tượng của nó. Đơn tử là “một tấm gương sống động của vũ trụ”. Song, biểu tượng của đơn tử không cần phải có ý thức (thông giác); nó phần lớn là vô thức hay chỉ là biểu tượng “thuần túy” (tri giác). Vì những người thuộc phái Descartes không có sự phân biệt giữa những biểu tượng có ý thức và những biểu tượng vô thức mà ngầm đánh đồng linh hồn với ý thức, nên họ không thể gán bất kỳ đời sống-linh hồn nào cho động vật không có lý tính, họ cũng không thể giả định bất kỳ nguyên tắc-đời sống tinh thần nào cho động vật. Leibniz rõ ràng đã loại bỏ khái niệm của Descartes về linh hồn (sđd., 4), nhất là vì học thuyết của ông cho rằng tất cả sự vật trong vũ trụ đều có quan hệ với nhau và hình thành nên một quy luật về tính liên tục (law of continuity) (lex continui; xem phần dẫn nhập của ông cho tác phẩm Những Tiểu luận mới Liên quan đến Giác tính của Con người; Wiener ed., trang 367).

Leibniz phân biệt nhiều cấp độ biểu tượng khác nhau, và, do đó, cũng là phân biệt nhiều cấp độ đời sống đơn tử khác nhau. Ngay ở cấp độ thấp nhất là những đơn tử có các biểu tượng hoàn toàn vô thức và không rõ ràng. Cấp độ thứ hai là những đơn tử có các biểu tượng được ý thức khi nó là vấn đề thuộc về tri giác cảm tính và ký ức. Những đơn tử thuộc loại này chính là linh hồn, nhưng chỉ theo nghĩa hẹp mà thôi, chẳng hạn như linh hồn của cây cối hay động vật. Ở cấp độ thứ ba là sự hình thành những biểu tượng kèm theo sự tự-ý thức. Năng lực hình thành các biểu tượng của loại đơn tử này là tinh thần đích thực, tức năng lực riêng biệt của con người để hình thành nên những biểu tượng. Ngay cả bên trong những đơn tử thuộc loại này cũng có những cấp độ phân chia khác nhau. Những đơn tử tinh thần có thể đại diện cho các sự vật hoặc theo kiểu mù mờ, không rõ ràng hoặc với sự rõ ràng và phân minh. Biểu tượng không rõ ràng là hoạt động bị hạn chế. Biểu tượng phân minh là hoạt động không bị hạn chế. Những biểu tượng hoàn toàn phân minh chỉ có thể có được nhờ đơn tử thần thánh vốn là hoạt động thần túy, hành động thuần túy.

Những đơn tử cá biệt được phân biệt với nhau theo năng lực biểu tượng của chúng, và ở đây, ta có một sự tiến triển liên tục từ cái vô cùng nhỏ bé như là ranh giới của hư vô đến cái vô cùng to lớn trong cường độ của hiện thực, của energeia. Mỗi đơn tử là một cái cá biệt, một “chung tố” (entelechy) – vai trò của chung tố đối với Leibniz cũng giống như vai trò của “bản thể thứ nhất” (first substance) đối với các nhà triết học cổ đại – mặc dù mỗi đơn tử cá biệt bao hàm toàn bộ vũ trụ trong tiềm năng của nó. Bất chấp tính cá biệt của năng lực biểu tượng của chúng, mọi đơn tử đều hòa hợp với nhau bởi sự thống nhất tiềm năng của chúng trong việc đại diện cho toàn bộ vũ trụ.

Có một sự hài hòa tiền lập trong đơn tử luận của Leibniz. Tư tưởng này được thể hiện theo cách thức phổ biến thông qua hình ảnh hai chiếc đồng hồ, sự loại suy Leibniz tiếp thu từ Geulincx. Khi sáng tạo nên những đơn tử, Thượng đế đã sắp đặt mọi thứ theo một kế hoạch xác định, giống như người chế tạo đồng hồ đồng bộ hóa hai chiếc đồng hồ. Vì những chiếc đồng hồ này sẽ luôn luôn hiển thị cùng một thời gian bằng việc tuân theo những quy luật cơ học chi phối hoạt động của chúng, không cần sự trợ giúp từ bất kỳ kích thích bên ngoài nào, do đó, theo cùng cách thức tương tự, những đơn tử tinh thần tường thuật chính xác và lặp lại chi tiết những gì xảy ra trong vật thể và ngược lại. Nguyên nhân thực sự cho sự hài hòa này là sự giống nhau về nội dung trong những biểu tượng của chúng. Có thể nói rằng Leibniz công nhận mỗi đơn tử là cái mà Spinoza quan niệm như là bản thể độc đáo, duy nhất của vũ trụ, cái “tất cả trong một”. Chủ đề về sự thống nhất vạn vật xuất hiện lặp đi lặp lại trong triết học Leibniz, nhưng lại được diễn giải hoàn toàn khác với cách diễn giải của Spinoza. Với Leibniz, thực tại của những cái cá biệt cụ thể vẫn được duy trì mà không cần loại bỏ sự thống nhất nền tảng của vũ trụ.

Những đặc điểm của nền siêu hình học này về đơn tử

Siêu hình học về đơn tử của Leibniz là hình mẫu của sự phát triển tư biện dựa trên tình hình đã có từ trước trong lịch sử triết học. Tư tưởng của ông phản ánh phần lớn tính cách của chính ông: luôn bị hấp dẫn bởi mọi thứ, tìm kiếm chân lý và công chính ở khắp mọi nơi nhằm đặt tất cả vào đúng chỗ của chúng. Khảo sát những nét cốt yếu trong hệ thống của ông ắt sẽ đền đáp xứng đáng cho những nỗ lực của ta.

Thoạt nhìn, siêu hình học về tồn tại của Leibniz dường như quá mức táo bạo, vì nó giải thích về mọi tồn tại, kể cả tồn tại vật chất trong thế giới cảm tính, dưới dạng thực tại tinh thần và hoạt động tinh thần (thuyết duy động lực tinh thần). Học thuyết của ông là một nỗ lực mới nhằm giải quyết vấn đề hữu thể học do học thuyết về bản thể của Descartes và nhị nguyên luận cố hữu của nó đặt ra, và nỗ lực của ông hoàn toàn khác biệt với những nỗ lực trước đó của Spinoza và những người theo thuyết Cơ hội tương hợp.

Tuy nhiên, đề xuất của Leibniz không hề táo bạo hơn những luận điểm trước đó. Trong thực tế, theo quan điểm trong tuyên bố của Descartes rằng dễ thấu hiểu tồn tại tinh thần hay tâm lý hơn là tồn tại vật chất thì giải pháp được Leibniz đưa ra là hoàn toàn có thể hiểu được. Dù thế nào, nó vẫn đáng tin hơn giải thích phổ biến, thiếu phê phán về thực tại khi hoàn toàn dựa trên bằng chứng của những sự vật vật chất. Bất chấp thuyết phiếm tâm lý (panpsychism) của mình, siêu hình học Leibniz không bác bỏ thực tại của những hiện tượng vật chất. Những sự vật vật chất quả thực “không gì khác hơn là những hiện tượng, nhưng chúng vẫn có cơ sở vững chắc và liên kết chặt chẽ với nhau”. Vật thể là hiện tượng có cơ sở vững chắc trong thực tại. Triết học của ông không phải chỉ là sự giả định về ý thức như những học giả từ thời Kant đã khẳng định. Thực tại của vật chất không bị phủ nhận; đúng hơn là sự tồn tại và hoạt động của nó được diễn giải là có tính cách tinh thần/ tâm lý.

Thuyết duy động lực đã cho phép Leibniz sử dụng trọn vẹn mọi đóng góp của khoa học tự nhiên hiện đại. Khoa học này đã định đề hóa sự hiện hữu của những nguyên tử, vì bất cứ nơi nào ta tìm thấy sự đa hợp, ta buộc phải giả định những phân tử tối hậu đã tạo nên cái đa hợp. Khoa học này vẫn còn gắn kết chặt chẽ với phương pháp giải thích định lượng-toán học về thế giới của các hiện tượng vẫn rất hiệu nghiệm cho đến nay, một sự giải thích sở dĩ có giá trị hiệu lực là nhờ thuyết duy động lực: vì những phân tử có khả năng gây ra các tác động chính là những phân tử có thể được đo lường theo kiểu định lượng.

Trong cuộc tranh luận với Descartes về các định luật chuyển động, Leibniz đã đưa ra định luật của riêng mình để xác định lực (f = mv2). Trong thực tế, định luật của ông không chính xác (công thức đúng phải là f = ma), nhưng chính việc ông nỗ lực phát biểu một định luật như vậy cho thấy ông không hề thờ ơ với những nguyên nhân chất liệu có hiệu lực trong lĩnh vực cơ học. Do đó, ta không thể lý giải sai bàn luận của ông về những mô thức bằng cách cố gắng giải thích chẳng hạn như cấu trúc nội tại của sinh thể chỉ đơn giản qua việc đánh đồng nó với thuật ngữ “linh hồn”. Leibniz cho rằng những vấn đề riêng biệt của tự nhiên phải được giải quyết theo cách thức phù hợp với sự phức tạp của chúng. Ngày nay, ta biết rằng sẽ thật sai lầm khi tin rằng toàn bộ giới tự nhiên có thể được giải thích chỉ bằng những nguyên tắc cơ giới. Chỉ riêng những nguyên tắc cảm tính thôi là chưa đủ; ta vẫn cần viện đến những nguyên tắc khác nữa, đó là những nguyên tắc thuộc cấp độ siêu hình học, và những nguyên tắc này là có trước.

Theo Leibniz, đơn tử không chỉ đơn giản là thành tố hay nguyên tử tối hậu tạo nên cái đa hợp. Đơn tử là cái gì đó còn nhiều hơn thế: nó là một bản thể và là một cái toàn bộ. Tuy nhiên, ở đây, cần thấy rằng những khái niệm về bản thể và về cái toàn bộ được Leibniz sử dụng theo nhiều cách khác nhau, do đó, ý nghĩa của chúng có phần hàm hồ. Có lúc, Leibniz nhấn mạnh tính bản thể của mỗi đơn tử cá biệt, gọi nó là “một tấm gương… đại diện cho vũ trụ từ góc nhìn của riêng nó” (Những Nguyên tắc của Tự nhiên và Ân sủng, 3). Lúc khác, ông lại lưu ý rằng những đơn tử phụ thuộc nhất định nào đó bị chi phối bởi những loại đơn tử đặc biệt được ông gọi là những đơn tử “trung tâm”. Những đơn tử trung tâm này được tìm thấy chẳng hạn như trong cái gọi là linh hồn của những vật thể sống, nói riêng là linh hồn tâm linh của con người. Những đơn tử đặc biệt này đại diện theo cách thức riêng biệt cho khối những đơn tử vô hạn bao quanh chúng và hình thành nên “cơ thể” chúng. Và chúng đại diện cho khối những đơn tử vô hạn chính vì chúng mang đến tính thống nhất và tính bản thể cho khối những đơn tử đó. Mặt khác, ông cho rằng việc những đơn tử phụ thuộc cấp thấp hơn được đưa vào bên trong cái toàn bộ của đơn tử thống trị hay đơn tử trung tâm là một điều hiển nhiên vì, như ta đã thấy, mỗi đơn tử bằng việc phản ánh vũ trụ đã phụ thuộc vào những cái toàn bộ này bởi chính sự kiện đó (sđd; Luận văn về Siêu hình học, 33).

Đặc biệt, tính tổng thể hay tính toàn bộ có thể quan sát được trong lĩnh vực của những sinh thể, nhưng nó không chỉ hiện hữu trong lĩnh vực này mà còn trong mỗi bộ phận của vũ trụ vật chất, ngay cả trong cái tầm thường, kém quan trọng nhất (Đơn tử luận, 64, 65, 70). Toàn bộ giới tự nhiên, không có ngoại lệ, là tác phẩm nghệ thuật vô cùng kỳ diệu vì mọi thứ bên trong nó đều thích nghi với sự hài hòa của cái toàn bộ. 

Để đánh giá khái niệm về cái toàn bộ hay tính tổng thể, Leibniz đã làm sống lại khái niệm về chung tố (entelechy) của trường phái Aristotle-Kinh viện, mang đến cho khái niệm về cái toàn bộ này ý nghĩa nguyên thủy của nó. Leibniz viết: “Ta có thể gọi tất cả những bản thể đơn giản thụ tạo hay các đơn tử là những chung tố. Vì chúng có sự hoàn hảo nhất định bên trong bản thân chúng; có sự tự túc tự mãn khiến chúng trở thành những nguồn suối cho các hoạt động nội tại của chúng – có thể nói đó là những cỗ máy tự động không mang tính vật thể” (Đơn tử luận, 18). Mặc dù đối với Leibniz, cũng như đối với Aristotle, chung tố biểu thị khía cạnh hình thức, hiện thực của bản thể, nhưng Leibniz khẳng định rằng mỗi chung tố chứa đựng bên trong bản thân nó “không chỉ là hành vi hay sự hoàn tất của khả thể mà còn là hoạt động nguyên thủy” (Những Nguyên tắc của Tự nhiên và Ân sủng). Do đó, có thể thấy rằng Leibniz, cùng với Aristotle và truyền thống Kinh viện, xem chung tố như là nguyên tắc hình thức, hiện thực của thực tại. Nhưng, thêm vào đó, ông còn gán hoạt động cho chung tố, khiến nó có chức năng năng động hơn trong hệ thống của ông.

Tuy nhiên, nhận xét một cách thích đáng thì đối với Leibniz, chung tố không có cùng ý nghĩa với khái niệm về “tính thống trị [hay chi phối]” trong sinh học hiện đại hay khái niệm đà sống (elan vital) của Bergson. Leibniz nỗ lực tìm cách giải thích những hiện tượng tự nhiên theo kiểu cơ giới như các nhà toán học ở thời đại của ông. Theo quan điểm của Leibniz, vật thể bao gồm đơn tử trung tâm hay đơn tử thống trị được bao quanh bởi khối những đơn tử ở cấp thấp hơn. Song, chuyển động của vật thể không chỉ nhờ vào hoạt động của đơn tử trung tâm mang đến tính thống nhất và tính bản thể cho vật thể mà mỗi đơn tử hay bộ phận cấp thấp hơn “cũng có một số những vận động riêng của nó” (Đơn tử luận, 65). Tuy nhiên, vì Leibniz ý thức sâu sắc về trật tự và sự hài hòa của toàn bộ đa hợp, nên ông đã hợp nhất thuyết cơ giới của mình với quan điểm hữu cơ về thực tại hữu hình, nhìn thấy nơi đơn tử trung tâm hay đơn tử thống trị năng lực mang lại sự thống nhất cho các vật thể.

Ta khó có thể xem hệ thống của Leibniz – kết hợp thuyết cơ giới với khái niệm của thuyết sinh lực (vitalistic) về sinh thể hữu cơ – là không mâu thuẫn. Tuy nhiên, khó khăn của ta bắt nguồn từ việc khái niệm truyền thống về chung tố như là mô thức đã phải chịu sự biến đổi lớn dưới ảnh hưởng của thuyết sinh lực-mới. Song, Leibniz hiểu khái niệm chung tố theo nghĩa nguyên thủy của nó như là cái mang đến trật tự, tính thống nhất và tính toàn bộ của bản thể. Nơi Leibniz, “tính hữu cơ” được gán cho bất cứ cái gì có thể hướng đến cái khác như phương tiện hướng đến mục đích, như cái bộ phận hướng đến cái toàn bộ. Descartes và những người theo thuyết cơ giới do tập trung vào những bộ phận và loại trừ tất cả những cái khác nên chỉ có thể nhận thấy những người máy giả tạo, những cỗ máy không có sự sống trong thực tại của thế giới hữu hình mà thôi. Nhưng Leibniz và những người tư duy theo kiểu siêu hình học nhận ra rằng cái toàn bộ mang lại sự thống nhất cho các bộ phận; do đó, họ hiểu được rằng những vật thể vật chất đều là “một dạng cỗ máy thần thánh hay người máy tự nhiên” (Đơn tử luận, 64; Wiener ed., trang 546).

Theo Leibniz, không có cái gì là vô nghĩa hay phi lý. Có một sự hài hòa kỳ diệu giữa vạn vật. Tính tự khởi xuất phát từ chính bản tính của chung tố. Không cái gì khuyết thiếu mô thức đích thực của mình, những bộ phận hay yếu tố tối hậu hay bất kỳ thực tại đa hợp nào cũng có thể được hiểu chỉ bằng cái toàn bộ, và điều này không chỉ đúng cho những sinh thể mà còn đúng cho toàn bộ thực tại. Do đó, Leibniz không hề e ngại khi phát biểu rằng: “Vật thể này là hữu cơ, mặc dù nó tạo thành một người máy hay cỗ máy tự nhiên… Và, vì thế giới là một khoảng đầy (plenum), tất cả đều được kết nối và mỗi vật thể đều tác động ít nhiều lên mọi vật thể khác, phù hợp với bản thể, và do phản ứng tự nó bị ảnh hưởng, do đó, mỗi đơn tử là một tấm gương sống động, hoặc được phú cho hoạt động nội tại, đại diện cho vũ trụ theo góc nhìn của nó, và có tính điều hành như chính bản thân vũ trụ” (Những Nguyên tắc của Tự nhiên và Ân sủng, 3; Wiener ed., trang 523-524).

Leibniz không phải là người ủng hộ cho thuyết toàn thể (holism) phiến diện. Ông không vì quan tâm đến cái phổ quát mà bỏ qua cái đặc thù, cái cá biệt, và đánh giá của ông về quan hệ nhân quả gây ra bởi những cái cá biệt đã hình thành nên một đặc trưng khác cho siêu hình học về đơn tử của ông. Các đơn tử là những lực nguyên thủy, có tồn tại và hoạt động riêng của chúng. Chúng không chỉ đơn giản là những thể cách của một bản thể vận hành đơn độc như Spinoza đã khẳng định sau khi những người theo thuyết Cơ hội tương hợp chuyển giao mọi hoạt động và tính hiệu quả cho Thượng đế.

Leibniz khẳng định rằng việc đặt mọi tính nhân quả nơi Thượng đế ắt sẽ “tước đoạt bản tính của những sự hoàn hảo riêng có và đặc biệt của nó, bằng cách đó, trong thực tế, ta sẽ truyền bá sự đánh giá quá mức hạn hẹp của mình về trật tự và sự hài hòa trong vũ trụ”. Đối với Spinoza, tự nhiên là một sự đơn điệu nhàm chán, trong đó, những cái cá biệt bị giản lược thành những ảo ảnh của trí tưởng tượng, không có bất kỳ thực tại nào của riêng chúng. Mặt khác, đối với Leibniz, “không có cái gì là dư thừa bỏ đi, không có thứ gì vô ích, không có cái gì chết đi hay biến mất trong vũ trụ cả”. “Mỗi bộ phận vật chất đều có thể được xem như là một khu vườn phủ đầy cây trái, như một ao nước đầy ắp cá tôm; nhưng mỗi nhành cây, mỗi con vật, mỗi giọt chất lỏng cũng đều là một khu vườn như thế hay một ao nước như thế” (Đơn tử luận, 69, 67; Wiener ed., trang 547). Nguyên tắc cơ bản trong mọi tư tưởng của Leibniz là sự giả định rằng những cái cá biệt đều hiện hữu và rằng tính đa tạp và một thể tính của thế giới thực tồn. Không phải vô cớ mà ông bận tâm đến vấn đề này ngay trong công trình đầu tiên của mình. Thực tại của những cái cá biệt và thuyết đa nguyên không chỉ xuất phát từ triết học tự nhiên và học thuyết về bản tính của những vật thể của ông mà còn đến từ sự kiện rằng đối với ông, thuyết đa nguyên là một tiên đề siêu hình học cũng cơ bản và thiết yếu như là tiên đề về bản thể thứ nhất trong tư tưởng của Aristotle.

Leibniz biện minh cho niềm tin của mình vào thuyết đa nguyên bằng nguyên tắc về những cái không thể biện biệt (indiscernibles). “Quả thực, việc mỗi đơn tử khác biệt với mọi đơn tử khác là điều tất yếu. Vì không bao giờ có việc hai sự vật hoàn toàn giống nhau trong tự nhiên và không thể tìm thấy một sự khác biệt bên trong hay sự khác biệt dựa trên phẩm tính (sự quy định) nội tại” (Đơn tử luận, 9; Wiener ed., trang 534). Thông qua nguyên tắc này, Leibniz đã bảo toàn được cái cá biệt không bị hấp thu vào trong bản thể phổ quát, duy nhất. Cũng nhờ nguyên tắc đó, ông đã tránh đi vào vết xe đổ của Spinoza. 

Leibniz đặc biệt quan tâm đến con người với tư cách là một nhân cách (person). Việc phủ nhận tính nhân cách bản thể của con người và cùng với nó là phủ nhận sự bất tử của linh hồn con người đồng nghĩa với việc hạ thấp phẩm giá con người. Không có tính nhân cách hoặc không có tính nhân quả đích thực, con người sẽ bị kết án là hoàn toàn vô dụng và trở nên trì trệ không hoạt động; con người bị đẩy vào trạng thái yên lặng, đơn điệu, trong đó, sự ngừng lại của mọi hoạt động riêng biệt và đặc thù sẽ không chỉ mâu thuẫn với lý tính mà còn bị áp đặt lên con người như là một sự hoàn hảo tích cực. Leibniz cho rằng Spinoza chỉ phát biểu điều này như là luận điểm của ông nhưng không bao giờ chứng minh nó. Ông bị phản bác ngay cả trước khi ông bắt đầu bằng kinh nghiệm, tức “cái cho ta biết rằng ta là điều gì đó đặc biệt, có tư duy, sở hữu tự ý thức và hình thành nên những quyết định, và rằng ta khác biệt với người khác, kẻ không chỉ tư duy khác mà còn đưa ra những quyết định khác với quyết định của riêng ta”.

Nếu ta công nhận đơn tử như là bản thể đặc thù thì ta cũng phải thiết định sự tự do. Đây cũng là đặc điểm của siêu hình học về đơn tử. Bằng cách giải phóng cái đặc thù như là cái gì có tính tự trị khỏi những chuỗi nguyên nhân nối tiếp phổ quát được Spinoza định đề hóa, Leibniz hy vọng có thể bảo tồn tính cá biệt và sự tự trị cho con người. Song, bàn luận của ông về sự hài hòa “tiền lập” lại tạo cơ sở cho sự phản bác rằng hệ thống của ông không hề có chỗ cho sự tự do. Leibniz xây dựng học thuyết về sự hài hòa tiền lập chính là để phản bác quan điểm của Arnauld: từ quan niệm về chủ thể con người, một tinh thần toàn trí toàn năng có thể biết một cách chắc chắn rằng những tùy thể nào và những sự kiện nào sẽ được kết nối với nó “một cách tất yếu”. Điều này dường như đánh dấu sự xuất hiện của phương pháp hình học (mos geometricus), biến thế giới thành một hệ thống phép tính lôgic. Dựa trên nó, các học giả đi xa đến mức cho rằng Leibniz xem thuyết tất định lôgic này như là đặc trưng riêng của ông, là triết học bí truyền của chính ông, và ông nói về sự tự do chỉ để thuận theo thói thường, chẳng hạn như trong Biện thần luận (I, 63) của mình, ông đã khẳng định một cách rõ ràng rằng sự hài hòa tiền lập này không phủ nhận sự tự do.

Thực tế là sự tự do và tính tất yếu hợp nhất chặt chẽ với nhau trong tư tưởng của Leibniz đến mức không có sự mâu thuẫn nào giữa chúng. Ông chỉ đơn giản phát biểu lại lập trường của mình liên quan đến sự khảo sát cơ giới luận và siêu hình học về thế giới. Trong sự kết nối này, ông khẳng định rằng mọi thứ trong thế giới của những hiện tượng tự nhiên đều xảy ra đồng thời theo kiểu của thuyết cơ giới (tất yếu) lẫn kiểu siêu hình học (tự do). Ông viết: “Những linh hồn hoạt động theo các quy tắc của nguyên nhân mục đích bằng những ham muốn, những mục đích và những phương tiện. Còn những vật thể hoạt động theo các quy luật của nguyên nhân tác động của sự vận động. Và hai vương quốc – của nguyên nhân tác động và của nguyên nhân mục đích – hòa hợp với nhau” (Đơn tử luận, 79). Nói cách khác, mỗi đơn tử thực sự là một lực nguyên thủy và hoạt động một cách tự khởi; nó không bao giờ phải chịu sự cưỡng bách từ bên ngoài mà sống cuộc đời của mình một cách trọn vẹn, phát triển tính bản thể của mình theo cách thức thuần túy nội tại. Do đó, mỗi đơn tử thực sự tự do và luôn luôn tự do. Dù quy luật và sự hài hòa chiếm ưu thế thì điều đó cũng vì đơn tử chính là tất cả và tất cả cũng là đơn tử. Kết quả là sự đối lập giữa các đơn tử hoàn toàn biến mất. Leibniz đã có thể nói rằng: “Dù không thể (per impossible), nhưng những thân xác hoạt động như thể không có linh hồn; và linh hồn hoạt động như thể không có những thân xác, và cả hai hoạt động như thể chúng đều ảnh hưởng lẫn nhau” (Đơn tử luận, 81).

Ở đây, ta bắt gặp một biến thể của tư tưởng Boethius. Ông cũng vướng phải khó khăn tương tự liên quan đến sự biết trước thần thánh (divine foreknowledge). Liệu có phải sự tự do sẽ biến mất nếu ta khăng khăng yêu cầu sự biết trước nơi Thượng đế? Ông đã giải quyết khó khăn này bằng cách viện đến sự kiện là Thượng đế không thực sự biết trước, vì thời gian không hiện hữu đối với Thượng đế. Đối với Ngài, tất cả đều là hiện tại vĩnh hằng. Qua cái gọi là sự biết trước của mình, Thượng đế không định trước bất cứ điều gì liên quan đến quá khứ. Và bản thân Leibniz không quy định cái này bằng cái kia, vì trong hệ thống của ông, không có sự đối lập nào giữa tồn tại này và tồn tại khác. Bằng việc viện đến Boethius, ta dễ dàng đánh giá đúng việc Leibniz đã trở thành một mắt xích trong sự liên tục của truyền thống siêu hình học phương Tây như thế nào. Ta không nên có cái nhìn sai lệch về truyền thống Kinh viện cổ xưa này vì nó vẫn tồn tại bất chấp sự du nhập của những thuật ngữ xa lạ và mới mẻ. Không nghi ngờ gì nữa, Leibniz đã chịu ảnh hưởng trực tiếp từ Giordano Bruno trong lý luận về đơn tử của mình. Được dẫn dắt bởi triết gia người Ý này, Leibniz đã chuyển sang tư biện của Cusanus trong những nghiên cứu của ông về cách thức mỗi tồn tại được tìm thấy trong mọi tồn tại khác (quodlibet in quolibet), về sự hòa giải giữa các mặt đối lập (những sự mâu thuẫn), và về thế giới như là sự phơi mở hay “khai triển” (explicatio) của Thượng đế. Theo nghĩa này, mỗi đơn tử là một tấm gương phản ánh vũ trụ, một unum in multis (Latinh: cái một trong cái nhiều/ thống nhất trong đa dạng). Và, cũng như Cusanus biết làm thế nào để dung hòa tri thức của một thời đại cấp tiến với di sản của quá khứ, thì mặc dù bị quyến rũ bởi những thành tựu của các khoa học tự nhiên hiện đại – trong thực tế, Leibniz là một trong những người khởi xướng đầu tiên của chúng – nhưng Leibniz không chỉ biết cách đưa những sự cách tân này vào siêu hình học cổ đại mà còn biết được làm thế nào để siêu hình học có thể đồng hóa những sự cách tân này một cách hiệu quả nhất. Ông chính là đại diện đích thực cho triết học vĩnh cửu (philosophia perennis).

 


[1] entelechies: tình trạng hoàn chỉnh của hữu thể; nguyên lý siêu hình học đưa hữu thể đến sự hiện hữu nhất định. (N.D)

 

Ý KIẾN BẠN ĐỌC

Mọi liên lạc và góp ý xin gửi về: dinhhongphuc2010@gmail.com.
Bản quyền: www.triethoc.edu.vn
Chịu trách nhiệm phát triển kỹ thuật: Công ty TNHH Công Nghệ Chuyển Giao Số Việt