Tư tưởng Việt Nam

Di thảo Nguyễn Trường Tộ: Bàn về những tình thế lớn trong thiên hạ

DI THẢO SỐ 1

BÀN VỀ NHỮNG TÌNH THẾ LỚN TRONG THIÊN HẠ*

(Thiên hạ đại thế luận) 

Tháng 2-3 năm Tự Đức 16 (tức tháng 3-4 năm 1863)

 

Tôi là Nguyễn Trường Tộ, bề tôi nước Đại Nam đã từng trốn ra nước ngoài xin đem những điều mà tôi đã biết và thấy một cách chính xác về sự thế trong thiên hạ, mạo tội kính bẩm. 

Trộm nghĩ việc trong thiên hạ chỉ có “thế” mà thôi. Chữ “thế” là nói bao gồm cả thiên thời nhân sự. Cho nên người biết rõ “thế” thì không trái trời, không mất thời, không hại người, không hỏng việc. 

Hãy nói về thiên đạo trước. Khí đất là từ Bắc đến Nam, vận trời từ Tây sang Đông, theo Hà đồ[1] thì thủy ở về phương Bắc, hỏa ở về phương Nam, kim ở về phương Tây, mộc ở về phương Đông. Thủy thì diệt hỏa, kim diệt mộc, ấy là lẽ tự nhiên của trời đất luôn luôn như vậy. 

Ngày nay các nước phương Tây, đã bao chiếm suốt từ Tây Nam cho đến Đông Bắc, toàn lãnh thổ châu Phi cho tới Thiên Phương, Thiên Trúc, Miến Điện, Xiêm La, Tô Môn Đáp Lạp, Trảo Oa, Lữ Tống, Cao Ly, Nhật Bản, Trung Quốc và các đảo ở ngoài biển, kể cả Tây châu, không đâu là không bị họ chẹn họng bám lưng. Nước Nga thì từ Tây Bắc đến Đông Nam gồm tất cả các nước Đại Uyển, Cốt Lợi Cán, Mông Cổ và các xứ ở phía Bắc Mãn Châu, không đâu là không chiếm đất và nô dịch dân những nơi đó. Ở trên lục địa, tất cả những chỗ nào có xe thuyền đi đến, con người đi qua, mặt trời mặt trăng soi chiếu, sương mù thấm đọng thì người Âu đều đặt chân tới, như tằm ăn cá nuốt, ở đâu thuận với họ thì phúc, chỗ nào trái với họ thì họa; ai hòa với họ thì được yên, ai cự lại thì dùng binh lực giao tranh; trong thiên hạ không ai dám kháng cự lại họ. Như thế, nếu đó không phải là ý trời định, địa thế xoay vần, thì sao không lấy số đông của bốn đại châu mà kháng cự lại người Tây phương? Huống hồ nước Việt ta là một nước bé nhỏ, tại sao lại muốn trái đạo trời mà làm những việc thiên hạ khó làm được? 

Đến như địa thế Trung Hoa chiếm 1 phần 3 Đông phương[2] nhân số đến 360 triệu, uy thế lẫy lừng, ai cũng phải thần phục họ cả, thế mà từ thời Minh về sau, người Tây phương vượt biển sang Đông, hai bên đánh nhau, thây chất thành đống, sau phải giảng hòa không biết bao nhiêu lần. Còn như ta là một xứ nóng, gần kề Quế Hải[3], là trạm nghỉ chân của người Tây phương trên đường sang Đông. Con giao long khi thấy đầm vực thì nghĩ cách đầm mình chứ không thể chịu bỏ mà đi.

Mới đây, người Pháp thừa thế đánh xong tỉnh Quảng Đông, đã đưa quân tinh nhuệ xuống phía Nam, làm Đà Nẵng thất thủ. Khi ấy giả sử ta có 10 vạn quân, cũng không đánh nhau được với họ. Phàm việc binh cốt ở thần tốc, họ đã biết rõ rằng quân ta mới nghe thanh thế họ đã phách lạc hồn xiêu rồi, hơn nữa cảng Đà Nẵng cách các doanh trại[4] ta chẳng bao xa thế tại sao họ không thừa thế chẻ tre, xua quân tinh nhuệ tiến tới mà lại thôi? Sao cứ thong dong nhàn hạ không cần lợi dụng thế tốc chiến? Hay vì họ nghĩ rằng ta phòng bị chưa kiên cố. Bởi lẽ ta càng phòng bị kiên cố chừng nào thì càng tỏ rõ được cái năng lực công phá của họ chừng ấy. Họ không cần thừa chỗ sơ hở mà đánh xuất kỳ bất ý như đối với nước địch có thế lực ngang ngửa với họ. Hơn nữa, người Pháp đến đây, một là hỏi ta vì sao giết hại giáo sĩ, hai là hỏi vì sao không chịu giao thiệp, ba là xin ta cắt cho một vài chỗ để làm đường giao thương như các nước thường làm. Lúc đầu họ không có ý đi cướp nước người. Nếu những yêu sách của họ được thỏa mãn, họ sẽ chấm dứt những hành động gây hấn như đã ước định chứ đâu đến nỗi dây dưa lan rộng như thế. Cũng ví như nước lụt, người hiểu biết thì thuận theo thế nước mà cho chảy xuôi, để nước chảy về sông về biển thì hết, nếu ngăn đọng lại thì úng núi ngập gò, tắc lại thì trôi nhà trôi cửa. Cho nên người khéo trị lụt, thì việc làm hết sức đơn giản. 

Hiện nay quân Pháp đã chỉnh cư thành Gia Định và các phủ huyện thuộc hạt, họ đào kinh đắp lũy trù kế lâu dài để tỏ ra không chịu đi, như hổ đã về rừng, rồng đã xuống biển. Bây giờ như ta muốn cố thủ thành trì đợi cho họ tê liệt thì thật chẳng khác nào muốn quét sạch lá rừng, tát cạn nước biển. Không hòa mà chiến, khác nào cứu lửa đổ thêm dầu, không những không cứu được mà còn cháy nhanh hơn nữa. 

Tôi thường nghiên cứu sự thế trong thiên hạ mà biết rằng hòa với Pháp là thượng sách. Hơn nữa ở châu Âu việc võ bị chỉ có nước Pháp là đứng hạng nhất, hùng mạnh nhất không thua ai cả. Họ lại có tính khẳng khái, hiếu chiến, với uy phong của một quân đội có xe sắt. Tuy dụng binh nhưng cũng biết trọng nghĩa giữ lời, không như các nước chỉ chuyên thủ lợi. Khi kéo quân đi đánh thì khí thế hiên ngang, thái độ hân hoan. Khi lâm trận thì xông pha tới trước, không chịu tụt lùi. Khi thắng trận thì cả nước hoan hô, dù tổn thất nghìn muôn người cũng chẳng tiếc, chỉ sao cho uy danh hùng tráng, quốc thể được bảo toàn làm trọng. Các tướng thì gan dạ, nhiều mưu trí, thạo binh pháp, thủy chiến, lục chiến đều rất giỏi. Thật đúng như sách DOANH HOÀN CHÍ LƯỢC đã chép vậy. 

Nếu như ngày kia Pháp đưa quân đến thì việc vượt biển cũng như đi trên đất bằng, trèo non như đi trên đường bộ. Nước ta tựa núi kề biển, địa thế như một con rắn dài. Nếu họ dùng hỏa thuyền chia nhau đánh cắt các tỉnh dọc bờ biển, lại cho các tàu đậu ngoài cửa sông lớn để triệt sự vận tải đường biển của ta, lại cho một đạo quân đóng giữ ở Hoành Sơn để chặn đường tiếp tế bằng đường bộ và cắt đường qua lại của đội quân Cần Vương, rồi lại đổ bộ tiến đánh các chỗ xung yếu, gấp rút truyền hịch khắp Nam Bắc, chiêu mộ bọn giặc cướp ẩn náu dùng làm bọn dẫn đường, thì thủy binh của ta sẽ trở thành vô dụng. Bộ binh thì đại lộ không thông. Chỉ còn đường Vạn Tượng, Ai Lao, Trấn Ninh, và đất Cao Miên thì lại hiểm trở khó đi mất nhiều ngày tháng đầu đuôi không liên lạc được với nhau. Nếu họ đánh một trận thì ta đã bị cái thế chia năm xẻ bảy[5]. Dù cho có trí dũng cũng không kịp ra mưu. Đại thế đã mất, lòng quân sĩ đã lìa thì còn ai đánh giặc nữa? Địa lợi như thế thì không thể trông cậy vào đâu được. 

Quân lính của ta lại chuyên dùng gươm dao gậy gộc, không thạo súng ống, dù phục binh cài bẫy, nhưng trận đồ như vậy chỉ hợp cho những tình thế không cấp bách, chỉ đánh được gần chứ không đánh được xa. Nếu họ dùng súng trường từ xa bắn suốt tới, thì quân ta chưa giáp trận mà gươm giáo đã tan tành. Khi họ đến gần thì dùng lưỡi lê xung phong một người đương được cả 100 người, xông lên như nước sông chảy xiết. Lúc ngừng lại thì như núi dựng, xông vào chẳng qua cũng như chuồn chuồn lay cột đá mà thôi. 

Hơn nữa, họ đã lão luyện chiến trận những phương pháp của Đông phương như dụ địch, kiêu binh, địa lôi, hỏa công, sập hầm, thuốc độc họ đều biết cả, dù có người trí xảo đến mấy cũng không nhử được họ. Huống chi việc thắng bại lại do ở nhuệ khí. Họ từ xa đến, dấn thân vào chỗ chết với khí thế một ra đi là không trở về[6]. Còn quân lính ta xưa nay vốn nhát gan, lại chưa quen đánh trận với nước khác, một ngày kia gặp phải quân địch mạnh mẽ, tuy có lòng dũng cảm nhưng khí thế đã suy lại đánh đâu thua đó, vừa mới nghe bóng nghe gió đã mất hết hồn vía, tham sống sợ chết là lẽ thường tình. Chỉ trước khi ra trận mà có lòng quyết thắng địch thì mới khỏi chết. Nay đã biết họ có thể tất thắng, ta có cơ dễ thua, lại không biết phép ra quân của họ biến hóa như thế nào mà đem quân nhút nhát của mình ra đánh lại quân vô địch của họ thật chẳng khác nào như bắt muỗi đội núi, đem dê đấu hổ, rõ ràng là lối tấn công như vậy không dùng được nữa.

Theo binh pháp, muốn cố thủ phải có hai điều kiện: một là thành trì, hai là nhân tâm. Lúc địch mới đến thì phải gấp rút chặn những chỗ xung yếu mà đuổi nó đi. Nếu kẻ địch đã thọc sâu vào cứ điểm, thì phải có thành cao hào sâu để hãm kẻ địch mệt mỏi. Đó là thượng sách. Ngày nay quân Pháp có hỏa thuyền để vận tải thì việc vượt muôn dặm cũng bằng chèo một mái chèo mà thôi. Nếu ta muốn ngăn bể để tuyệt lương của họ cũng không thể được. Họ muốn tăng thêm quân sang ta thì theo đường Biển Đỏ chỉ độ bốn, năm tuần là đến nơi. Nếu cần lắm thì gởi giấy xin quân Anh đóng ở Ấn Độ, Tức Lực, Hương Cảng, Thượng Hải... thì sớm chiều là có thể đến nơi để giúp. Lại có quân của Y Pha Nho ở Lữ Tống, đến dồn sức tấn công.

Quân Pháp đánh thành không cần dùng những phương pháp bắc thang đường hầm, xe kiếm, bao đất[7], mà đại pháo bắn ra thì núi lở gò sập, thành đã vỡ, thì ta tuy có lương tiền nhiều, gươm giáo sắc và có phương pháp giữ thành cũng trở nên vô dụng. Hơn nữa, người Pháp đánh ta, trèo thành như lên đệm gối, sở dĩ lâu nay họ chưa dùng đến là vì cắt cổ gà cần gì phải dùng dao mổ trâu. Nếu gặp đối thủ thì như trận đánh ở Biển Đen năm trước, Tây Ba Sĩ Đa Bốc Lỗ là một thành kiên cố nhất thiên hạ, Nga là một nước cường địch bậc nhất trong thiên hạ có trăm vạn quân, đã giữ vững trong hai năm, thế mà rồi cũng bị hãm. Lấy ta so sánh với Nga cũng như lấy Đằng, Tiết mà so sánh với Tần, Sở[8]. Nga như thế mà chống không được còn bị đánh tan tành, ta đâu có đủ sự hiểm yếu nào có thể mong cậy được!

Hiện nay tình hình trong nước rối loạn. Trời thì sanh tai biến để cảnh cáo, đất thì hạn hán tai ương, tiền của sức lực của dân đã kiệt quệ, việc cung ứng cho quân binh đã mệt mỏi, trong Triều đình quần thần chỉ làm trò hề cho vui lòng vua, che đậy những việc hư hỏng trong nước, ngăn chặn những bậc hiền tài, chia đảng lập phái khuynh loát nhau, những việc như vậy cũng đã nhiều; ngoài các tỉnh thì quan tham lại nhũng xưng hùng xưng bá tác phúc tác oai, áp bức tàn nhẫn kẻ cô thế, bòn rút mỡ dân, đục khoét tủy nước, việc đó đã xảy ra từ lâu rồi. Những kẻ hận đời ghét kẻ gian tà, những kẻ thất chí vong mạng, phần nhiều ẩn núp nơi thảo dã, chính là lúc Thắng, Quảng[9] sẽ thừa cơ nổi dậy. Thế mà sao đối ngoại thì không có cách nào để động đến một mảy may lông của quân Pháp, cũng chẳng thuyết phục được ai để giải vây cho, lại đi tàn sát dân mình, giận cá chém thớt, khiến cho dân bị cái hại “cháy nhà vạ lây”. Thật đúng như câu nói: “đào ao đuổi cá”, “nối giáo cho giặc”. Cây cối trước hết tự nó hủ mục sau mới bị sâu đục; nước mình trước hết không biết tự giữ thể diện thì người ta mới khinh mình; dân loạn bên trong, rồi kẻ địch mới nhân đó mà vào. Như thế loạn không phải chỉ từ bên ngoài mà ở ngay trong nước vậy. 

Than ôi! Dân chúng phụng sự quan trên, đóng thuế nạp tô, để mong được sống yên thân, thế mà bây giờ lại lấy những thứ nuôi sống người đó để làm hại người, nỡ khiến dân chúng vấp phải họa binh đao, nỡ tranh giành cái nhỏ mà bỏ cái lớn, cũng như muốn bảo tồn cành lá mà lại đem đẵn cả cội gốc. Cho nên mới nói: không sợ thế giặc ngang tàng mà sợ lòng người rời rạc. Lòng người đã rời rạc, đã muốn chóng mất, thì dù có thành trì bằng kim loại, có ao nước sôi cũng phải bỏ mà chạy, ai ở đó chịu chết mà giữ cho!

Sự thế hiện nay chỉ có hòa. Hòa thì trên không cưỡng lại ý trời, dưới có thể làm cho dân khỏi khổ, chấm dứt được sự dòm ngó của bọn gian nghịch, ngăn chặn được sự tranh giành của nước ngoài, thật là hay không thể kể xiết. Còn việc binh đao thì thật là tai họa nó làm cho vợ góa con côi, tổn thương hòa khí của trời đất, sinh ra hạn hán lụt lội. Thánh nhân bất đắc dĩ mới phải dụng binh dẹp loạn. Nếu không đánh mà khuất phục được binh lính người mới là đánh giỏi. Nay có đánh họ cũng không đi, hòa họ cũng không đi. Họ chỉ xin mình miếng đất mà thôi, nếu cứ kiên quyết không cho, họ sẽ lập mưu cướp hết, từ khách quay lại làm chủ. Như thế là tiếc một hai mảnh đất mà đem cả nước trao cho họ. Nếu biết rõ, họ đã đến là không đi, họ ỷ thế vào những nước khác, thì đánh với họ tức là mất cái lớn không đáng mất mà còn tỏ ra mất đó là vì bất lực, không hợp tình, không kêu nài gì được; chi bằng hòa mà chịu mất cái nhỏ không thể không mất mà còn tỏ ra mình ngoại giao biết điều và là việc hợp tình hợp lý có hơn không? Nếu bảo quân ta mạnh, lúa gạo ta nhiều, chưa chi đã vội hòa sợ thiên hạ cười chê chăng? Nói như thế tức là không nhịn nhục việc nhỏ để hỏng việc lớn vậy[10]. Không thấy một nước Trung Hoa to lớn là thế mà còn phải cắt đất cầu hòa. Lại nữa, như Thái vương bỏ đất Mân[11], Câu Tiễn thờ vua Ngô, việc hòa thân của Hán[12], việc cống nạp của Tống[13], tất cả đều lấy việc không đánh là hơn, mà còn trọng sinh mệnh nữa. Luận việc này có ai cho là thất sách đâu? 

Hoặc giả có người nói đất đai tổ tiên để lại không được đưa gang tấc nào cho kẻ khác. Như vậy là quá câu chấp mà để hỏng việc nước. Sao không xem xưa nay có ai là chủ giang sơn mãi đâu. Nhà Tấn bị Hồ[14] gây loạn, Tống mất vào tay Nguyên, Minh mất vào tay Thanh, họ này thay thế họ kia chẳng phải do số trời sắp đặt đó sao? (... ) Từ xưa, các bậc đế vương, mỗi khi thay họ đổi ngôi thì con cháu không có đất cắm dùi, đều do tiếc cái ít để mất cái nhiều.

Hơn nữa, thiên hạ là của chung của thiên hạ, các bậc đế vương dĩ nhiên không thể đem thiên hạ mà cho ai, chỉ có điều là biết không thể cho được rồi sau mới có thể cho được. Nếu không tùy thời liệu định, cho để mà giữ, chẳng may thế sự chuyển dần thì rõ ràng là phải đưa hết tất cả cho người ta. Thế nên, Câu Tiễn chịu nhẫn nhục để được còn nước Việt, vua Văn Hoàng mượn binh để lập cơ nghiệp, đều là muốn bảo toàn thiên hạ cả. Xưa nay, chưa có ai không ẩn nhẫn việc nhỏ mà làm nên việc lớn bao giờ. 

Theo cách ngày nay thì nên để quân lính nghỉ ngơi, rồi làm theo chước Hán Cao Tổ cắt Quang Trung cho Hạng Võ ngày xưa để họ giữ bờ cõi cho mình, như có hổ báo trong rừng thì chồn cáo không dám bén mảng tới. Thế nhượng một tấc đất mà nhân dân lợi vô cùng. Như thế chẳng phải là làm việc chung cho thiên hạ đó sao? Người xưa cũng làm như thế thôi, không thể bỏ cách đó mà theo mưu khác được. Thế là xoay chuyển một cái mà kẻ sống người chết đều chịu ơn, thật là sáng rõ, rõ như ánh lửa rọi chẳng còn hình tích gì đáng nghi nữa cả. Dân đã yên sau sẽ khiến kẻ hiền tài vượt biển, sang các nước lớn học cách đánh trận giữ thành, học tập trí xảo của thiên hạ, giao thiệp với họ lâu dài, mới biết lường sức đo tài, biết hết tình trạng của họ. Học cho tinh vi mới sinh kỹ xảo, rất mực kỹ xảo mới mạnh, bấy giờ sẽ dưỡng uy súc nhuệ, đợi thời hành động, mất ở phía Đông thì lấy lại ở phía Tây, cũng chưa muộn gì[15]

Vả lại, những điều mà nước Pháp xin, chẳng qua là để mở bến tàu; lập phố xá, thông cửa bể để buôn bán, lập nhà thờ để giảng đạo mà thôi. Lẽ thường những nơi có buôn bán, thế tất không thể mở thương trường, lập cơ xưởng. Như người Trung Hoa ở nước ta cũng vậy. Lấy có đổi không, khiến Nam Bắc hòa hợp, của cải hàng hóa lưu thông, tiêu dùng tiện lợi, cuộc sống đầy đủ đều nhờ ở đó cả. Xưa nay chưa có ai buôn bán mà âm mưu chiếm nước người ta bao giờ. Còn như giáo sĩ thì họ chỉ lấy việc mở rộng đạo giáo chống lại gian tà, làm trách nhiệm, chẳng liên quan gì đến những việc tranh thành tranh đất cả. Sở dĩ họ xin bỏ việc cấm đạo chẳng qua là để cho sự truyền đạo được dễ dàng mà thôi. Nếu nói họ có âm mưu gì khác thì Đức Thế Tổ Cao hoàng đế[16] đã ở với giáo sĩ lâu ngày tưởng cũng đã biết ít nhiều hành động của họ. Nếu quả như người ta nói, tại sao không đề phòng ngăn cấm trước để chi đến nay mới cấm, khiến người Pháp mượn cớ trách ta? Nếu nói họ dụ dỗ giáo dân trước rồi mới gây hấn với ta, thì sao họ không thừa cơ khi ta mới bắt đầu dựng cơ nghiệp mà đem quân cả nước đánh lấy cả Nam Bắc phải đợi đến hàng chục năm dài về sau mới tính mưu? Phải chăng vì họ chưa được thông thương cho nên chưa lập mưu lấy nước ta, thế thì ngày nay họ đã thông thương được với nước ta đâu mà có thể thắng được ta? Nếu họ quyết ý chiến thắng thì dễ như lấy vật trong túi đời nào lại chịu giảng hòa với ta. Những việc đó đã quá rõ, không đợi phải nói mới biết được. Còn ta nếu không chịu hòa, thì họ xưa nay vốn hiếu thắng, đời nào lại chịu thôi. Cho nên tôi nói hòa với họ là tiện lợi, là một việc rất tốt phù hợp với lẽ trời đất. Trời đất hòa mới có mưa móc tưới nhuần. Bốn mùa hòa vạn vật mới sinh nở. Hai nước hòa bờ cõi mới an ninh. Triều đình hòa trăm việc mới chỉnh đốn. Xưa nay chưa có khi nào bất hòa mà làm xong việc được.

Vậy kính xin đại nhân tâu lại đầy đủ[17]. Cho họ một miếng đất thì chẳng những các sĩ phu trong thiên hạ muốn làm quan ở Triều đình mình, người buôn trong thiên hạ đua nhau đến buôn bán trong nước mình, mà nước nhà sẽ được vững như bàn thạch, là dân sẽ tránh được khổ lầm than, để giữ vững cơ nghiệp. 

Tôi ở nước ngoài đã lâu biết rõ sức của họ, tinh tường tình hình của họ. Xưa Hàn Dũ có nói: “Biết mà không nói là bất nhân; nói mà không nói hết là bất nghĩa”. Vì vậy, tôi tuy thân giang hồ mà lòng vẫn ở nơi đế khuyết. Thật không nỡ lòng thấy đất nước bị chia cắt, trăm họ bị lìa tan, cho nên không nghĩ mình ở địa vị thấp hèn, dám cả gan nói ra. Nếu như lời tôi nói là gian trá, hoặc có ai xui khiến tôi nói thì tôi xin nạp mình trước cửa đế đô, để làm chứng sau này[18]

Tôi xin gởi kèm theo đây một bản đồ để chú giải rõ những điều nói trên đây. 

Kính xin soi xét. Sau này nếu được yên, tôi xin đích thân đến để trình bày rõ nỗi lòng riêng bấy lâu ấp ủ của tôi. 

Nay bái bẩm 

Ngày tháng năm Tự Đức 16 

Nguyễn Trường Tộ ký


Nguồn: Trương Bá Cần. Nguyễn Trường Tộ - con người và di thảo, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, 2002


 

* Nguyên văn chữ Hán: Hv 189/1 tờ 34 - 45; Hv 634/1 tờ 40 - 58; Hv 135 tờ 38 - 50; NAM PHONG (N.P) số 100 trang 47 - 58. 

- Về nội dung, bản NAM PHONG, trong chi tiết, có những lời lẽ dài dòng và không chính xác bằng ba bản kia. 

- Về ngày tháng năm, thì chỉ có Hv 189/1 là ghi “Tự Đức thập lục niên, nguyệt..., nhật...); còn ba bản kia thì không ghi ngày tháng. Từ Ngọc Nguyễn Lân, sđd, có trích nhiều đoạn của Thiên hạ đại thế và nói: Không rõ ngày tháng.

- Về đầu đề thì NAM PHONG ghi: “Nguyễn Trường Tộ điều trần thiên hạ đại thế nguyên tập (nguyên danh quốc tế thượng giao thông chi chính sách)”. Hv 634/1 ghi: “Điều trần thỉnh hứa đại Pháp quốc khai phụ thông thương”, còn Hv 189/1 và Hv 135 không có đầu đề. Chính Nguyễn Trường Tộ, trong Trần tình, nói: “Thiên hạ phân hợp đại thế luận” và trong các bài viết sau này, nhiều lần nói đến “Luận phân hợp”. Ông Nguyễn Lân nói: “Thiên hạ đại thế”; ông Đào Duy Anh nói: “Thiên hạ đại thế luận”. 

Từ những dữ kiện nêu trên, chúng ta có thể tạm kết luận là Nguyễn Trường Tộ đã viết, để thuyết phục Triều đình Huế phải hòa với Pháp, vào hai thời điểm khác nhau: 

a. Theo bài Trần tình, thì năm 1861, Nguyễn Trường Tộ đã có gởi cho Nguyễn Bá Nghi một bài Bàn về việc hòa (Hòa từ) và trong Trần tình có trích một đoạn của Hòa từ, lời lẽ hoàn toàn giống như trong bản N.P và các bản Hv. Bản văn đăng trong N. P có thể là bài Bàn về việc hòa của năm 1861. Bởi vì bản N. P so với các bản Hv, lời lẽ không chỉnh và không khúc chiết bằng. Hơn nữa bài Bàn về việc hòa hình như được viết để cho nhà vua đọc, nên tác giả nói: “Phục vọng chuẩn thần sở kiến”: kính mong các ý kiến của thần được chấp thuận, trong lúc các bản Hv nói: “đại nhân cụ đề chuyển tấu”: kính xin đại nhân tâu lại đầy đủ. Bản N.P lại có phụ đề: “Nguyên danh: Quốc tế thượng giao thông chi chính sách”. 

b. Cũng theo bài Trần tình, thì năm 1863, Nguyễn Trường Tộ còn có bài Thiên hạ phân hợp đại thế luận. Để viết bài này, Nguyễn Trường Tộ chỉ lấy bài Hòa từ sửa chữa lại cho chỉnh và gọn gàng. Lúc đầu, hình như Nguyễn Trường Tộ định viết như một thư văn có mào đầu, có niên hiệu; nhưng sau có thể đã sửa chữa để gởi kèm theo bài Trần tình như một bài nghị luận, nên không có mào đề, không có niên hiệu. Đây là bản đã được sao chép lại trong Hv 135 và Hv 634/1 mà các tác giả như Nguyễn Lân, Đào Đăng Vĩ đều đã tham khảo và nói là “không rõ ngày tháng”. Bản được sao chép trong Hv 189/1 có lẽ là bản thảo ban đầu được sao chép lại gởi cho Phạm Phú Thứ. Ở đầu bài có ghi: “Giá tập ký dữ thần Phạm Phú Thứ (Bản này gởi thần Phạm Phú Thứ”). Đây có thể là lời của Nội Các hay Viện Cơ Mật.

[1] Hà đồ: Thời ông Phục Hy làm vua thiên hạ, có con Long mã đội bức “đồ” (tức là bức vẽ) hiện ra ở sông Hà, ông Phục Hy theo cái văn bản ở trong bức đồ ấy vạch ra 8 quẻ ứng với 5 điều thủy, hỏa, kim, mộc và thổ là ở giữa bức đồ.

[2] NAM PHONG nói: 2/3 Á Đông, Nguyễn Lân sđd trang 129 cũng nói: “một phần ba Á đông”.

[3] Nam Hải.

[4] NAM PHONG nói: “Đà Nẵng đi kinh đô” (Đà Nẵng khứ Kinh). Nhưng nói như vậy là lúc Nguyễn Trường Tộ đánh giá chưa đúng lý do tại sao quân Pháp đầu năm 1858 không tiến đánh Huế mà lại hướng vào Nam bộ.

[5] Những chữ xiên không có trong Nam Phong.

[6] Nguyên văn là Phá phủ trầm chu chi thế. Do tích: Ngày xưa Hạng Vũ đem quân đi đánh Tần, lúc đã đến gần chiến trường ông bắt đập vỡ hết cả nồi chảo nấu cơm, đánh đắm thuyền, chỉ mang lương thực vừa đủ ăn trong ba ngày, để tỏ ý cho quân sĩ biết rằng nhất định phải quyết chiến, nên ai nấy phải liều chết.

[7] Xe kiếm: Là một loại xe đằng trước có mũi nhọn bằng sắt để húc cho thủng thành, bao đất; dịch chữ “thổ nang” tức là bao đựng đất để sắp đống mà trèo thành.

[8] Đằng, Tiết là hai nước rất nhỏ. Tần, Sở là hai nước rất lớn thời Xuân Thu (Trung Quốc).

[9] Thắng, Quảng: Trần Thắng, Ngô Quảng đã từng tụ tập nông dân, chống lại Tần Thủy Hoàng.

[10] Ở đây bản NAM PHONG có một đoạn như sau: “Tôi trước đây ở Đại Thanh thấy nước Pháp ký hòa ước với Đại Thanh chỉ có 5 cửa biển mà thôi. Sau sự biến ở Quảng Đông, Pháp bèn cùng Anh chiếm Quảng Châu. Đại Thanh lại phải cho Pháp được tự ý từ Kinh Châu, Hán Khẩu xuống cửa sông Dương Tử chọn lấy một nơi tốt nhất. Đến năm Hàm Phong thứ 2, Tăng Vương hủy bỏ hòa ước và gây sự, Pháp liền bỏ Đà Nẵng hợp cùng với Anh đánh Thiên Tân, Tăng Vương thua chạy lên phía Bắc. Pháp tiến lên Thông Châu đánh thẳng vào Hậu Uyển. Hàm Phong chạy sang Nhiệt Hà sai Cung Thân Vương giảng hòa, chịu bồi thường 800 vạn lạng bạc, lại phải nhượng thêm Thiên Tân, cửa sông Đại Cô và Lai Châu thuộc tỉnh Sơn Đông, Quỳnh Châu, Đài Loan thuộc tỉnh Quảng Đông. Chuyện Trung Quốc thật đúng như câu nói: “Giống lừa không chở nặng không chịu đi” thật là thất sách”.

[11] Mân: Tên cũ của một nước ở Trung Quốc, địa vực hoạt động đầu tiên của thời Chu nay là giáp tỉnh Thiểm Tây.

[12] Hán hòa thân với Hung nô.

[13] Nạp tiền và hàng hóa cho nước Liêu và nước Kim.

[14] Loạn Ngũ Hồ.

[15] Ở đây bản NAM PHONG có một đoạn như sau: “Việc ấy hiện có căn cứ sự thật. Tôi đã xét qua nhân tài các nước phương Đông thấy ít nước nào hơn nước mình. Người Pháp cũng phục người Nam có nhiều trí xảo. Tôi đã từng ở các nước xa về phía Tây nghe họ đều nói các môn Thiên văn, Địa lý, Cách vật, trí xảo, hỏa xa, hỏa thuyền, đồng hồ… người Nam học rất thông minh linh lợi. Nhưng cái bệnh của người mình là câu nệ thủ cựu, chuộng văn chương, không ra khỏi nước nên thấy, nghe chưa rộng, khiến họ chê cười. Nếu các danh nho cao sĩ của ta được qua lại giao thiệp với các nước thì không đầy 10 năm sẽ như Đỗ Mục nói: 
    Giang Đông còn lắm người tài giỏi, 
    Cuốn đất tràn về lại có phen!

[16] Vua Gia Long.

[17] NAM PHONG nói: Xin chấp nhận cho ý kiến của thần. (Chuẩn thần sở kiến).

[18] Bản NAM PHONG chấm dứt ở đây.

 

Ý KIẾN BẠN ĐỌC

Mọi liên lạc và góp ý xin gửi về: dinhhongphuc2010@gmail.com.
Bản quyền: www.triethoc.edu.vn
Chịu trách nhiệm phát triển kỹ thuật: Công ty TNHH Công Nghệ Chuyển Giao Số Việt