BRIAN DUIGNAN | NGUYỄN HUY CƯỜNG dịch || Thuyết Tân-Platon là tên gọi hiện đại cho một dạng thức của thuyết Platon do Plotinus phát triển vào thế kỷ thứ ba sau CN và được các môn đệ kế thừa hiệu chỉnh. Trường phái này đã trở nên thống trị
BRIAN DUIGNAN | NGUYỄN HUY CƯỜNG dịch || Vào nửa đầu thế kỷ thứ 4 TCN, thành quốc Tarentum, ở miền nam nước Ý, đã chiếm lĩnh vị trí quan trọng đáng kể. Dưới sự lãnh đạo chính trị và tinh thần của nhà toán học Archytas, thành quốc trở thành trung tâm mới
BRIAN DUIGNAN | NGUYỄN HUY CƯỜNG dịch || Thuyết hoài nghi, được khởi xướng bởi Pyrrhon xứ Elis (360 – 272 TCN), một triết gia cùng thời với Zeno, nhìn chung đã có vai trò rất quan trọng...
BRIAN DUIGNAN | NGUYỄN HUY CƯỜNG dịch || Tư tưởng của Epicurus (341 – 270 TCN), người cùng thời với Zeno, cũng đã thiết lập nên một trường phái triết học phòng vệ trong một thế giới nhiễu nhương.
BRIAN DUIGNAN | NGUYỄN HUY CƯỜNG dịch || Thuyết Khắc kỷ là một trong những trường phái triết học cao thượng và siêu việt nhất trong sử sách nền văn minh Tây phương. Khi cổ vũ sự tham gia vào các hoạt động con người
JEAN-PAUL SARTRE (1905-1980) | ĐINH HỒNG PHÚC dịch || “Hắn nhìn như muốn xơi tái cô nàng”. Cách nói này và nhiều dấu hiệu khác cho thấy khá rõ ảo tưởng chung đối với thuyết duy thực và thuyết duy tâm: biết tức là ăn.
G.W.F. HEGEL (1770-1831) | BÙI VĂN NAM SƠN dịch và chú giải || Thuyết duy nghiệm là kết quả đầu tiên của một nhu cầu kép: trước hết là nhu cầu về một nội dung cụ thể, đối lập lại với các lý thuyết trừu tượng của giác tính vốn không thể, tự chính mình
G.W.F. HEGEL (1770-1831) | BÙI VĂN NAM SƠN dịch và chú giải || Tiền-giả định của Siêu hình học cổ truyền là tiền-giả định về một lòng tin ngây thơ nói chung, đó là: tư duy nắm bắt được những vật-tự thân, và những gì là đúng thật nơi sự vật chỉ [có thể] là những gì được suy tưởng mà thôi.
MASSIMO PIGLIUCCI |ĐINH HỒNG PHÚC dịch || chúng tôi mời bạn đến với cẩm nang của triết học Khắc kỷ trước nạn dịch COVID-19 – và trước bất cứ nạn đại dịch nào trong tương lai.
G.W.F. HEGEL (1770-1831) | BÙI VĂN NAM SƠN dịch và chú giải || Đối với các khái niệm sơ bộ về triết học nói chung cũng như đối với mọi sự quy định được chứa đựng trong phần Khái niệm Sơ bộ này, điều có giá trị chung là: chúng đều là những sự quy định
BÙI VĂN NAM SƠN || Phần “Dẫn nhập” (§§1-18) đúc kết ở cao điểm là tiểu đoạn §18, do đó, chúng ta cần tập trung tìm hiểu tiểu đoạn then chốt này. Tiểu đoạn này giúp ta xác định vị trí của Khoa học Lôgíc trong tổng thể các “Khoa học triết học”
BÙI VĂN NAM SƠN || Lời Tựa III có giọng điệu còn gay gắt hơn cả hai Lời Tựa trước! Vị “chua chát” trong Lời Tựa này hé lộ phần nào tư thế phải lui về “phòng ngự” của Hegel, dù ông đang ở trên đỉnh cao của danh vọng và hết sức thành công
JEAN-PAUL SARTRE (1905-1980) | ĐINH HỒNG PHÚC dịch || Ông Zaslavski trách cứ chủ nghĩa hiện sinh là “hoàn toàn không có tính duy linh”. Nhưng nếu ông ta có chút kiến thức sơ đẳng về chủ nghĩa Mác thì hẳn ông ta sẽ biết rằng
GEORG WILHELM FRIEDRICH HEGEL (1770-1831) | BÙI VĂN NAM SƠN dịch và chú giải || Triết học thiếu cái thuận lợi mà các ngành khoa học khác được hưởng đó là nó không thể tiền-giả định những đối tượng của mình như là được mang lại
BÙI VĂN NAM SƠN || Lời Tựa II được viết dài nhất trong ba Lời Tựa, có nội dung phong phú, phức tạp như là cương lĩnh tóm tắt của triết học Hegel, đồng thời mang nhiều ẩn ý và ám chỉ. Để tìm hiểu, ta nên đọc chậm rãi và thử từng bước “tháo rời” nó ra
BÙI VĂN NAM SƠN || Hegel đã viết ba Lời Tựa cho ba lần xuất bản của bộ Bách khoa thư (1817, 1827, 1830). Tính chất của ba Lời Tựa này được Hegel nói rõ trong Lời Tựa II. Theo ông, đó là việc “phải lên tiếng về những vấn đề vốn nằm bên ngoài