Nỗ lực muốn thử trần thuật lại ở đây lịch sử của các triết gia Hy Lạp thời Cổ đại khác biệt với các dự tính tương tự, do ở tính cách vắn gọn của nó. Muốn đạt đến sự vắn gọn này, đối với mỗi triết gia, tôi chỉ kể ra một số rất ít những học thuyết của họ, do đó quả là khiếm khuyết.
Con người bởi có lý trí nên không chịu dừng bước trước những hiểu biết nửa chừng. Cảm quan được giúp sức bởi những thể tiên nghiệm (formes a priori) và bởi những phạm trù của tri năng (catégories de l'entendement) đã đem lại cho con người những hiểu biết về hiện tượng.
Khi Kant bắt đầu giảng dạy tại đại học Konigsberg thì triết học Tây phương đang bị chi phối bởi hai trào lưu tư tưởng chính: một bên là những đề án có tính cách quyết đoán của Leibniz và Wolf, bên kia là những tác phẩm thiên về hoài nghi chủ nghĩa của David Hume. Những người thuộc phe quyết đoán tin rằng có đủ chứng cớ để chứng minh sự hiện hữu của Thượng đế, sự bất diệt của linh hồn, tính tự do của con người.
Việc bộ Cương yếu này được in và, như thế, được xuất hiện trước cử tọa rộng rãi, đã cho tôi cơ hội làm rõ hơn một số Nhận xét mà mục đích hàng đầu là bình luận ngắn gọn về một số quan niệm gần gũi hoặc khác biệt với các quan niệm của tôi, về những hệ luận xa hơn của lập luận của tôi và về nhiều vấn đề khác ắt sẽ chỉ có thể minh giải thực sự trong bản thân các bài giảng.
Thưa quý công dân Athènes, lời tuyên án vừa rồi của quý vị không làm Socrate phẫn nộ bao nhiêu vì nhiều lý do, trong đó phải nói rằng nó không bất ngờ chút nào đối với kết cục tôi chờ đợi. Điều còn làm tôi ngạc nhiên hơn là sự chênh lệch giữa hai số phiếu; thú thật rằng tôi không ngờ mình bị kết án bởi một đa số yếu như thế, bởi vì nếu tôi tính đúng, chỉ cần có sự xê dịch của 30 phiếu là trắng án.
Sự nghiệp của Marx khởi đầu bằng một sự phê phán nghiêm khắc về triết học. Nhưng sự nỗ lực xây dựng một lý thuyết về lịch sử, về chủ nghĩa tư bản và những cuộc khủng hoảng của nó ở Marx vẫn còn bị chi phối mạnh mẽ bởi hai yêu sách triết học: tinh thần hệ thống và tinh thần phê phán.
Đọc một văn bản cũng giống như việc lần theo quá trình ẩn hiện liên tục này chứ không giống như việc đếm tràng hạt. ý tưởng ngôn ngữ là quá trình có ý nghĩa về thời gian, giúp chúng ta có thể không phải bó tay trong quá trình đi tìm ý nghĩa. Khi tôi đọc một câu, ý nghĩa của câu thường cách này cách khác đình lại, trì hoãn hoặc chưa giải mã ngay được: cái biểu đạt này đẩy tôi đến cái biểu đạt khác và cứ thế tiếp tục
Những năm cuối cùng trong đời của Platon có thể gọi là những năm hạnh phúc. Môn đệ của ông nhiều người giữ địa vị cao trong xã hội. Ông được các môn đệ tìm đến vì ông luôn luôn giữ được tinh thần sáng suốt cởi mở thông cảm với tất cả mọi người. Năm 80 tuổi, Platon được một môn đệ mời đi dự đám cưới. Khi tiệc gần tàn Platon lui vào nhà trong để nằm nghỉ. Sáng sớm người ta đến thức ông dậy thì thấy rằng ông đã qua đời. Đám táng của ông được tổ chức rất trọng thể với rất nhiều người tham dự.
Triết học pháp quyền” là tên gọi ngắn gọn và quen thuộc dành cho tác phẩm lừng danh mang đến hai nhan đề: “Các nguyên lý của triết học pháp quyền” (Grundlinien der Philosophie des Rechts) và “Đại cương pháp quyền tự nhiên và khoa học về Nhà nước” (Naturrecht und Staatswissenschaft im Grundrisse) của Hegel sau khi tác giả của nó đã qua đời
Vấn đề tìm hiểu xem tư duy của con người có thể đạt tới chân lý khách quan không, hoàn toàn không phải là một vấn đề lý luận mà là một vấn đề thực tiễn. Chính trong thực tiễn mà con người phải chứng minh chân lý, nghĩa là chứng minh tính hiện thực và sức mạnh, tính trần tục của tư duy của mình.
“Hiện Tượng Học tại Việt Nam” vốn là bài báo cáo khoa học viết bằng Anh ngữ hoàn tất vào tháng 8.2004 (Phenomenology in Vietnam - A Panaromic Review). Thực ra, vào năm 1983, dịp Hội Nghị Quốc Tế lần Thứ Nhất tại Viễn Đông về Hiện Tượng Học (ĐH Đông Hải, Đài Trung, 8. 1883), tôi đã nhận lời mời của Tập san Nghiên cứu Phenomenological Information (Boston) viết một đoản luận về hiện tượng học tại Trung Hoa và Việt Nam, nhắm bổ túc vào tập The Phenomenological Movement của Giáo Sư Herbert Spiegelberg (ĐH Washington, St. Louis).
C.Mác là nhà lý luận tiên phong khẳng định rằng, con người nên tuân theo cách phát triển bền vững. Học thuyết của ông là học thuyết giải phóng con người và tự nhiên, làm thành giá trị và nguyên tắc cao nhất của kinh tế học sinh thái mácxít. Tác giả bài viết cho rằng, theo nghĩa rộng, kinh tế học sinh thái mácxít là khoa học vạch ra quy luật, cơ chế tổ chức thống nhất, sự vận động và phát triển của nó.
Những năm đầu, Hegel cũng chỉ loẹt quẹt vô định hướng trong triết học, đọc đây một tí kia một chút, lúc thì Kant, lúc lại Platon, xong lại nhẩy sang Schiller hay Montesquieu. Đến lúc chủng viện thành lập hội độc giả Kant, thì anh xin lỗi và bảo mình đang bận nghiên cứu về Rousseau. Anh tuyên bố thích những triết lý thực tế về cuộc sống của Rousseau hơn thứ lý thuyết siêu hình học bụi bặm cũng như chán việc bám khư khư một cách cằn cỗi và lý thuyết vào những khái niệm trong các tác phẩm của Kant
Lịch sử triết học và lịch sử khoa học xã hội chỉ ra một cách hoàn toàn rõ rằng chủ nghĩa Mác không có gì là giống "chủ nghĩa tông phái", hiểu theo nghĩa là một học thuyết đóng kín và cứng nhắc, nảy sinh ở ngoài con đường phát triển vĩ đại của văn minh thế giới. Trái lại, tất cả thiên tài của Mác chính là ở chỗ đã giải đáp được những vấn đề mà tư tưởng tiên tiến của nhân loại đã nêu ra.Học thuyết của ông ra đời thành sự thừa kế thẳng và trực tiếp học thuyết của các đại biểu xuất sắc nhất cho triết học, chính trị kinh tế học và chủ nghĩa xã hội.
Mùa hè năm 1843 Mác đã từ Cologne đến Kreuznach và tại đây ông đã tổ chức lễ cưới Jenny von Vestphalen ngày 19 tháng Sáu. Từ tháng Ba đến tháng Chín 1843 Marx đã thương lượng với Ruge về việc xuất bản ở nước ngoài tạp chí Deutsch-Französische Jahrbücher. Bức thư này gửi cho Feuerbach có liên quan đến ý định của Marx muốn thu hút những đại biểu tiên tiến của giới trí thức Đức và Pháp cộng tác với tạp chí này. Cuối tháng Mười 1843 Marx đã đi Paris và đã xuất bản tạp chí này tại đó.
JULIAN ROBERT | ĐINH HỒNG PHÚC dịch || Hans-Georg Gadamer, mất tại Heidelberg ở tuổi 102, là một trong những nhân vật nổi bật của triết học Đức thế kỷ 20. Điều ngạc nhiên không phải là việc ông sống lâu mà là việc ông dâng trọn cuộc đời đầy hăng say của mình cho hoạt động triết học.