Triết học nghệ thuật

Nghệ thuật là thi ca

 

NGHỆ THUẬT LÀ THI CA

BÙI VĂN NAM SƠN


Bài viết này là chương 10 với nhan đề “Nghệ thuật là thi ca” trong bản Chú giải Dẫn nhập của Bùi Văn Nam Sơn về tác phẩm Nguồn gốc của tác phẩm nghệ thuật (Der Ursprung des Kunstwerkes, 1935) của triết gia Martin Heidegger. Sách chưa được xuất bản. Phiên bản điện tử bài viết này đăng trên http://www.triethoc.edu.vn đã được tác giả cho phép.


 

 

 

10.1. Thi Ca: bản chất của Nghệ thuật (§§154-156)

 

MỤC LỤC

1. Từ luận điểm của Hegel về "sự cáo chung" của nghệ thuật

2. "Nguồn gốc là gì?

3. Tác phẩm nghệ thuật và vật

4. Tồn tại của vật dụng

5. Sự tự tồn của tác phẩm nghệ thuật

6. "Cõi sống" và "đất"

7. Bản chất của chân lý

8. Chân lý và nghệ thuật

9. Sáng tạo và bảo tồn

10. Nghệ thuật là thi ca

11. Lời kết

-    Ta hiểu sự khẳng định này như thế nào? Trước hết, ta cần hiểu quan niệm của Heidegger về “Thi ca” (Dichtung/poetry). Khác với cách hiểu thông thường của ta về từ này, Heidegger xem thi ca là bản chất của mọi loại nghệ thuật:

 

“Chân lý - như là sự khai quang và sự che giấu của cái tồn tại - xảy ra khi được “sáng tác” (gedichtet/being composed) [giống như thi sĩ làm thơ]. Tất cả mọi nghệ thuật - hiểu như hãy để cho việc chân lý của cái tồn tại đã đến được xảy ra -, về cơ bản, đều là Thi Ca. Bản chất của nghệ thuật, chỗ dựa của tác phẩm và người nghệ sĩ, là việc tự-thiết-định-thành-tác-phẩm của chân lý” (§154).

 

-    Vì thế, trong Der Spruch des Anaximander/Lời của Anaximander (1946), Heidegger gọi suy tư về chân lý của Tồn tại là dictare, dichten một cách căn nguyên (GA5, 328), mặc dù ông thường phân biệt trách vụ của nhà tư tưởng và của thi sĩ. Vậy, ta hiểu Thi Ca như là chân lý-tự-thiết-định-thành-tác-phẩm như thế nào?

 

-    Như ta đã thấy, chân lý nơi Heidegger không được hiểu như là sự trùng hợp hay sự đúng đắn giữa phán đoán và thực tại theo cách hiểu quen thuộc. Việc chân lý tự thiết định thành tác phẩm không có nghĩa là những thực thể chung quanh ta đột nhiên không còn tồn tại và những thực thể mới ra đời. Trái lại, điều thay đổi ở đây chỉ là cách thức con người quan hệ với những sự vật này, hay đúng hơn, là thể điệu sự vật tự trình hiện chính mình. Dưới ánh sáng mới, bây giờ chúng xuất hiện khác hẳn với chúng trước đây:

 

… “Nhờ bản chất thi ca của nghệ thuật, nên ở giữa lòng cái tồn tại, nghệ thuật mở ra một khoảng trống, và trong sự mở ngỏ ấy, tất cả đều tồn tại khác với bình thường. Nhờ dự phóng được thiết định thành tác phẩm của sự không-che giấu của cái tồn tại đang hướng đến ta, nên, thông qua tác phẩm, tất cả những gì là bình thường, quen thuộc trước nay đều trở thành cái không-tồn tại. Sự không-tồn tại này đã mất đi sức mạnh ban phát và kiềm chế Tồn tại như là Hạn độ. Điều kỳ lạ ở đây là: tác phẩm tuyệt nhiên không còn tác động đến cái tồn tại trước nay bằng các sự nối kết nhân quả nữa. Cái “tác” của tác phẩm không nằm ở sự tác động của một nguyên nhân. Trái lại, nó nằm trong một sự biến đổi đang xảy ra từ tác phẩm của sự không-che giấu của cái tồn tại, và đó có nghĩa là: của Tồn tại” (§154).

 

-    … “Những gì là bình thường, quen thuộc trước nay [tức, với tư cách là Hạn độ, “có sức mạnh ban phát và kiềm chế Tồn tại”] đều trở thành cái không-tồn tại” (wird zum Unseienden/into an unbeing), tất nhiên, không có nghĩa rằng chúng đột nhiên trở thành hư vô, bởi “tác phẩm không tác động đến cái tồn tại trước nay bằng sự nối kết nhân quả”. Chúng vẫn là những sự vật ấy, nhưng chúng không còn trình hiện cho ta như trước đây nữa. Cái thay đổi ở đây chỉ là “Tồn tại” (Sein/Being) của chúng. “Tồn tại” bao giờ cũng là thể điệu mà sự vật trình hiện cho Dasein [thực tại người]. Thể điệu ấy được “thiết lập” một cách sử tính theo cách nào đó. Thể điệu trình hiện ấy bây giờ được thiết lập bởi tác phẩm mang tính “thi ca”:

 

“Nhưng, Thi Ca không phải là một sự tưởng tượng tùy tiện, bốc đồng, không phải là sự bay bổng của sự hình dung và hư cấu trong thế giới của cái không-hiện thực. Những gì Thi ca triển khai về sự không-che giấu như là Dự phóng đang khai quang, những gì Thi ca trù hoạch thành đồ án của hình thể, chính là cái Mở ngỏ mà Thi ca để cho xảy ra, và, theo thể điệu là: chỉ từ nay, giữa lòng của cái tồn tại, cái Mở ngỏ mang cái tồn tại đến chỗ rực lên và vang lên. Từ cái nhìn sâu thẳm vào bản chất của tác phẩm và vào mối quan hệ của nó với việc chân lý của cái tồn tại đang xảy ra, thật đáng ngờ khi tưởng rằng bản chất của Thi Ca, đồng thời có nghĩa rằng bản chất của Dự phóng, có thể được suy tưởng một cách hoàn chỉnh chỉ từ năng lực hay sức mạnh của trí tưởng tượng” (§155).

 

-    Đáng chú ý ở đây là câu cuối khi vai trò của trí tưởng tượng được Heidegger xem nhẹ hơn so với Kant, không chỉ trong lĩnh vực nghệ thuật mà cả trong lý thuyết nhận thức nói chung.

 

-    “Cái Mở ngỏ mang cái tồn tại đến chỗ rực lên và vang lên”: xem nghệ thuật như một luồng ánh sáng làm cho sự vật trở nên khả kiến khiến ta nhớ đến câu nói nổi tiếng của Paul Klee: “Nghệ thuật không tái tạo cái khả kiến mà làm cho nó trở nên khả kiến” (“Art does not reproduce the visible; it makes visible”) (Creative Creds, 1920). Heidegger gọi đó là sự “dự phóng” (Entwurf/projection) một thế giới mới, chẳng hạn qua tranh của họa sĩ Hà Lan Piet Mondrian (1872-1944).

 

10.2. “Thi ca” (Dichtung/Poetry) và “Thơ” (Poesie/poesy) (157-162)

 

-    Cho đến nay, ta thấy “Thi Ca” theo nghĩa rộng của Heidegger liên quan nhiều đến hội họa và kiến trúc hơn là với “thơ” theo cách hiểu thông thường, mà Heidegger gọi là Poesie/poesy. Tuy nhiên, bây giờ, “thơ” (theo nghĩa hẹp) vẫn được Heidegger xem trọng hơn mọi loại hình nghệ thuật khác:

 

“Nếu mọi nghệ thuật, về bản chất, đều là Thi Ca, thì phải chăng nghệ thuật kiến trúc, nghệ thuật hình ảnh, nghệ thuật âm thanh đều phải được quy về nghệ thuật làm thơ. Không, đó là một sự võ đoán thuần túy. Tất nhiên, bao lâu ta cho rằng các bộ môn nghệ thuật kể trên đều là những biến thể của nghệ thuật ngôn từ, thì ta có thể biểu thị Thi Ca bằng danh hiệu dễ gây ngộ nhận ấy. Nhưng, Thơ hay nghệ thuật làm thơ chỉ là một thể điệu của Dự phóng-khai quang của chân lý, nghĩa là, của Thi Ca theo nghĩa rộng trên đây. Dù vậy, tác phẩm bằng ngôn từ, tức Thi Ca theo nghĩa hẹp của Thơ, vẫn có một vị trí kiệt xuất trong toàn bộ những bộ môn nghệ thuật” (chúng tôi nhận mạnh) (§157).

 

-    “Tính thứ nhất”, “sự kiệt xuất” hay “sự ưu tiên” dành cho Thơ bắt nguồn từ những đặc tính của bản thân ngôn ngữ. Theo Heidegger, ta thường hay quên rằng không có sự khai mở nào về những cái tồn tại mà không qua sự trung giới hay môi giới của ngôn ngữ. Chẳng hạn một mệnh đề thông thường: “Căn phòng có bốn cửa sổ”. Mệnh đề này là đúng nếu căn phòng quả thật có bốn cửa sổ và ta chỉ cần nhìn quanh phòng là thấy. Nhưng, cái gì là điều kiện tiên quyết cho việc nhìn thấy ấy? Ta thấy cửa sổ như là cửa sổ, bởi ta có một không gian ý niệm trong đó những cửa sổ này có mặt. Khái niệm “cửa sổ” ở đây giống như một tọa độ của không gian ấy. Và khái niệm này thiết yếu gắn liền với một cách diễn đạt nào đó bằng ngôn ngữ (dù đó là “cửa sổ”, “window”, “fenêtre” hay “Fenster”… trong các thứ tiếng khác nhau). Không gian khái niệm của ta gắn liền với một ngôn ngữ nhất định. Nói khác đi, “sống ở đời” hay “tồn-tại-trong-thế-giới” là cư lưu trong một ngôn ngữ nào đó.

 

-    Ngôn ngữ này được “ban tặng” cho ta, dù ta hiếm khi ý thức về nó. Ngôn ngữ này không phải do ta sáng tạo nên. Theo nghĩa đó, như trong Tồn tại và Thời gian, Heidegger nói về việc con người sử dụng ngôn ngữ đời thường, thậm chí gọi nó là “tán nhảm” (Gerede/idle talk) khi chìu theo ngôn ngữ thông dụng trong xã hội mình đang sống. Vậy, nếu ngôn ngữ trước hết là cái gì đã “có sẵn”, vậy liệu có thể có một thứ ngôn ngữ khác có thể được gọi là ngôn ngữ tạo dựng như cách nói của Heidegger về một thứ “Thi Ca căn nguyên” (“nguyên ngôn” hay “ngôn ngữ Thi dựng-Thi nhiên” theo các dịch của Bùi Giáng)? Ta vẫn sử dụng từ ngữ quen thuộc, nhưng theo cách phóng chiếu một luồng ánh sáng mới vào những gì nó gọi tên và để cho ta nhìn nó theo thể điệu ấy lần đầu tiên. “Thi ca căn nguyên”, “Nguyên ngôn”, “Ngôn ngữ Thi dựng-Thi nhiên” ấy là việc “gọi tên” sự vật như thể lần đầu tiên ta gặp gỡ nó:

 

“Để nhận ra điều ấy, chỉ cần có một khái niệm thích đáng về ngôn ngữ. Trong hình dung thông tục, ngôn ngữ được xem là một loại hình của việc truyền thông. Nó dùng để trao đổi và hứa hẹn, nói chung, để thông hiểu nhau. Nhưng, ngôn ngữ không chỉ và không chủ yếu là một sự diễn đạt bằng âm thanh và chữ viết về những gì cần được truyền thông. Ngôn ngữ không chỉ chuyên chở những gì công khai và ẩn giấu muốn được truyền đạt bằng lời và câu, trái lại, chỉ có ngôn ngữ mới mang cái tồn tại vào trong cái Mở ngỏ đúng như là cái tồn tại. Ở đâu không có ngôn ngữ, chẳng hạn trong sự tồn tại của sỏi đá, cây cối, thú vật, thì cũng không tồn tại một sự Mở ngỏ của cái tồn tại, và do đó, cũng không có sự Mở ngỏ của cái không-tồn tại lẫn của cái hư không” (§158).

 

-    Trong Tồn tại và Thời gian, Heidegger gọi lời nói (Rede/discourse) (phiên dịch từ “Logos” của Hy Lạp) là một trong những “phổ sinh” (Existentialien/existentials) hình thành nên Dasein, phản ảnh cách hiểu của người Hy Lạp về con người như là zoon logon echon (Latinh: animal rationale): con vật có năng lực sử dụng lời nói/con vật có lý tính. Nhưng, Heidegger nhấn mạnh rằng lời nói (Rede/logos) thiết yếu là ngôn ngữ (Sprache/language), bởi con người trước hết không phải là trí tuệ hay “bản thể tư duy” (res cogitans) đơn thuần, không cần đến thân xác như quan niệm của Descartes, trái lại, chỉ có thể hiện hữu trong lòng thế giới, giữa lòng những cái tồn tại khác, mà chủ yếu là cùng chia sẻ một ngôn ngữ chung. Con người mang “tính ngôn ngữ” ngay trong bản chất của mình. Chỉ có ngôn ngữ mới có thể làm cho sự vật tồn tại theo nghĩa hữu thể học (ontological), chứ không chỉ vật thể học (ontic):

 

“Khi ngôn ngữ lần đầu tiên gọi tên cái tồn tại, chính sự định danh ấy mới làm cho cái tồn tại lên tiếng và xuất hiện ra. Việc gọi tên ấy định danh cái tồn tại thành sự Tồn tại của nó và từ sự Tồn tại ấy. Việc “nói lên” ấy là một Dự phóng của sự khai quang, trong đó nói lên việc cái tồn tại đi đến cái Mở ngỏ như là cái gì. Dự phóng là phóng ra một cú ném, khiến cho sự không-che giấu ăn khớp với cái tồn tại xét như cái tồn tại. Việc “nói ra” mang tính dự phóng này sẽ đồng thời là việc “nói không” với sự hỗn độn mờ mịt, trong đó cái tồn tại che giấu và ẩn mình” (§159).

 

-    Đây cũng là quan niệm thường được Heidegger nhắc đến, chẳng hạn trong Hölderlin và Bản chất của Thi Ca”/Hölderlin und das Wesen der Dichtung (GA 4, 38-40). Chỉ có ngôn ngữ mới cho phép ta nhận diện và trải nghiệm sự vật như là sự vật này hay sự vật kia. Con người cư lưu ở trong ngôn ngữ. Và vì thế, Heidegger gọi “ngôn ngữ là ngôi nhà của Tồn tại”.

 

-    Một lần nữa, Heidegger nhấn mạnh đến “tính thứ nhất” của ngôn ngữ, và qua đó, “tính thứ nhất” của Thơ theo nghĩa hẹp, so với các bộ môn nghệ thuật khác (kiến trúc, tạo hình…), do mối quan hệ đặc biệt của Thơ đối với ngôn ngữ:

 

“Bản thân ngôn ngữ là Thi Ca theo nghĩa căn cơ. Nhưng vì lẽ bây giờ ngôn ngữ là sự xảy ra, trong đó, cái tồn tại lần đầu tiên tỏ lộ cho con người như là cái tồn tại, do đó Thơ, tức Thi Ca theo nghĩa hẹp, chính là Thi Ca căn nguyên nhất theo nghĩa căn cơ. Ngôn ngữ sở dĩ là Thi Ca không phải bởi vì nó là Thơ-Nguyên thủy, mà đúng hơn là vì Thơ xảy ra trong ngôn ngữ, bởi ngôn ngữ bảo tồn bản chất căn nguyên của Thi Ca. Trong khi đó, nghệ thuật kiến trúc và tạo hình luôn đã và chỉ xảy ra trong cái Mở Ngỏ của việc nói và gọi tên. Chính cái Mở ngỏ cai quản và hướng dẫn chúng. Và chính vì lý do ấy, chúng giữ con đường đi và thể điệu riêng trong việc chân lý tự thể hiện thành tác phẩm. Chúng là một loại Thi Ca riêng biệt bên trong sự khai quang của cái tồn tại, một sự khai quang đã từng xảy ra trong ngôn ngữ và không được lưu ý tới” (§162).

 

-    Nhiều câu hỏi có thể được đặt ra để thảo luận:

-    Heidegger có đánh giá quá cao vai trò của ngôn ngữ không, khi chính con người có thể “vượt qua” ngôn ngữ để suy tư và phản tỉnh về ngôn ngữ?

- Lý giải thế nào về sự khác biệt giữa Heidegger (xem Thơ có mối quan hệ đặc biệt với ngôn ngữ) và Hegel (xem kiến trúc là khởi đầu của tiến trình của Tinh thần, do mối quan hệ đặc biệt của nó với Đất)?

 

10.3. Tính sáng tạo của sự bảo tồn (§§163-171)

 

“Nghệ thuật là Thi Ca, xét như việc Chân lý thiết định-thành-tác phẩm. Không chỉ việc sáng tạo tác phẩm là có tính thi ca mà cả sự bảo tồn cũng thế, chỉ có điều, ở trong thể điệu riêng biệt của nó mà thôi, vì một tác phẩm chỉ là hiện thực như một tác phẩm, khi ta tự rút mình ra khỏi vòng quen thuộc, đều đặn thường ngày và bước vào cái được tác phẩm mở ngỏ để mang chính bản chất của ta vào đứng bên trong chân lý của cái tồn tại” (§163).

 

-    Đáng chú ý là sự nhấn mạnh của Heidegger về “tính Thi Ca” không chỉ của việc sáng tạo mà cả của việc bảo tồn. Bảo tồn (“thưởng ngoạn”, “tiếp nhận” trong cách nói quen thuộc), theo Heidegger, đòi hỏi người bảo tồn phải biết đáp ứng một cách sáng tạo đối với tác phẩm của người sáng tạo. Ta có thể so sánh điều này với những gì Heidegger đã nói trong Tồn tại và Thời gian về “sự kiên quyết” và “hành động đích thực” như là sự “lặp lại” (Wiederholung/repetition) hiểu như là sự đáp ứng sáng tạo với những mẫu mực nào đó trong quá khứ. (“Lặp lại” là hình ảnh ẩn dụ về “điệp khúc” trong âm nhạc: cùng một giai điệu, nhưng mỗi lần “lặp lại” là mỗi lần gây cảm xúc mới). Vì thế, Tồn tại và Thời gian được Heidegger hiểu như là “lặp lại câu hỏi về Tồn tại”.

 

-    Vậy, người bảo tồn cần phải làm gì? Theo Heidegger, người bảo tồn cần “mở lòng” đón nhận vết nứt giữa Đất và Cõi sống được nhà sáng tạo thiết định thành tác phẩm. Để thực sự “mở ngỏ”, cả người sáng tạo lẫn người bảo tồn đều phải “tự rút mình ra khỏi vòng quen thuộc, đều đặn thường ngày và bước vào cái được tác phẩm mở ngỏ để mang chính bản chất của ta vào đứng bên trong chân lý của cái tồn tại” (§163).

 

-    Tiểu đoạn tiếp theo xác định tầm quan trọng của “tính Thi Ca” trong việc bảo tồn:

 

“Bản chất của nghệ thuật là Thi Ca. Nhưng, bản chất của Thi Ca là thiết lập chân lý. Ở đây, ta hiểu “thiết lập” trong sự thống nhất của cả ba nghĩa: thiết lập như là ban tặng, thiết lập như là đặt cơ sở và thiết lập như là khởi đầu. Nhưng, sự thiết lập chỉ là hiện thực trong sự bảo tồn. Do đó, mỗi thể điệu thiết lập tương ứng với mỗi thể điệu bảo tồn. Ở đây ta chỉ có thể nêu vài nét sơ lược về cấu trúc bản chất này của nghệ thuật và cũng chỉ đề cập trong chừng mực việc nêu đặc điểm trước đây về bản chất của tác phẩm cho ta một chỉ dẫn ban đầu” (§164).

 

-    Từ then chốt ở đây là “thiết lập” (Stiftung/founding), được hiểu theo ba nghĩa: ban tặng (schenken/bestowing); đặt cơ sở (gründen/grounding) và khởi đầu (anfangen/begining). Việc “thiết lập” dựa vào một sự ban tặng; sự ban tặng sẽ thiết lập nên cái gì đó mang tính định chế; và sau cùng, sự thiết lập này là sự khởi đầu cho cái gì có lịch sử riêng của mình.

 

10.3.1. “Thiết lập” như là ban tặng

 

“Việc thiết định-thành-tác-phẩm của chân lý đẩy cái dị thường lên cao và đồng thời đẩy cái bình thường và những gì được xem là bình thường xuống thấp. Chân lý tự bộc lộ trong tác phẩm không bao giờ có thể được chứng minh hay được rút ra từ những gì quen thuộc trước nay. Những gì quen thuộc trước nay như là hiện thực duy nhất bị chính tác phẩm bác bỏ. Vì thế, những gì nghệ thuật thiết lập không bao giờ có thể được cân đối hay bù đắp bằng cái gì đã có và sẵn có. Sự thiết lập là một sự tràn đầy, một sự ban tặng dư dật” (§165).

 

-    Ta nhớ đến Kant trong Phê phán năng lực phán đoán (§49) khi ông hiểu tác phẩm nghệ thuật như là sự sáng tạo nguyên thủy, độc đáo, “không bao giờ có thể được chứng minh và rút ra từ những gì có trước đó”. Vì thế, Kant cũng hiểu tác phẩm nghệ thuật như là quà tặng mà bậc thiên tài sáng tạo ban tặng cho ta. Cái gì được ban tặng? Theo Kant, đó chính là “Ý niệm thẩm mỹ” như là “sự hình dung của trí tưởng tượng gây nên nhiều điều suy nghĩ, nhưng lại không có bất kỳ một tư tưởng nhất định nào, tức không một khái niệm nào có thể tương ứng trọn vẹn với nó cả, và do đó, không một ngôn ngữ nào có thể hoàn toàn đạt đến và làm cho nó có thể hiểu được” (§49)([1])

 

-    Ở đây, ta có thể kết nối cái được Kant gọi là “Ý niệm thẩm mỹ” với điều Heidegger gọi là “sự thiết-định-thành-tác-phẩm của chân lý”. Ta cũng có thể liên tưởng đến cách hiểu của Schopenhauer về cái đẹp như là sự “giáng trần” của Ý niệm kiểu Platon vào trong cái khả kiến, cùng với quan niệm của Platon về mối quan hệ giữa cái đẹp và chân lý.

 

-    Kant từng nhấn mạnh rằng tác phẩm nghệ thuật đích thực không bao giờ là cái gì do thiên tài cô độc sáng tạo ra cho riêng mình, mà thiết yếu phải cho những người khác, để được đánh giá và xứng danh là tác phẩm nghệ thuật (Phê phán năng lực phán đoán, §49). Heidegger cũng cho rằng tác phẩm nghệ thuật, được hiểu như là Stiftung (“thiết lập”), luôn hướng đến “người bảo tồn”, để họ tiếp tục những gì đã được sáng tạo, đã được khởi đầu. Với Kant, thiên tài sáng tạo “ban tặng” quy tắc cho nghệ thuật “như thể nó là Tự nhiên”, thì Heidegger tìm thấy điều ấy trong Đất:

 

“Dự phóng mang tính thi ca của chân lý – cái dự phóng tự thiết định thành tác phẩm như là hình thể – cũng không bao giờ kết liễu thành cái trống rỗng và bất định. Trái lại, trong tác phẩm, chân lý được phóng tới những người bảo tồn tương lai, nghĩa là, phóng tới một tập thể người mang sử tính. Tuy nhiên, cái được phóng đi không bao giờ là một điều ép buộc võ đoán. Dự phóng mang tính thi ca đích thực là sự khai mở những gì mà con người sử tính vốn đã được ném vào. Đó chính là Đất và, đối với một dân tộc mang sử tính, là Đất của họ, là nền đất tự-khép kín, trên đó dân tộc ấy cư lưu cùng với tất cả những gì vốn đã có mặt, dù vẫn còn ẩn giấu đối với họ. Nhưng đó cũng là Cõi sống của họ, Cõi sống cai quản nhờ vào mối liên hệ tồn tại-người (Dasein) với sự không-che giấu của Tồn tại. Vì lý do đó, tất cả những gì đã được ban tặng cho con người phải được khai quật lên trong sự dự phóng từ nền đất khép kín và được thiết định vững chắc trên nền đất ấy. Chỉ như thế, nền đất mới được thiết lập như là nền móng chở che, nâng đỡ” (§166).

 

-    Đáng chú ý: ở đây, Heidegger hiểu bản thân Đất cũng mang “sử tính” (geschichtlich/historical). “Đất” của chúng ta ngày nay không phải là “Đất” của người Hy Lạp cổ đại. Hiểu như thế thì Đất lại là cái gì có từ trước, không được ta biết tới, nhưng lại có khả năng thiết lập nên những khả thể tương lai của ta, cho dù những khả thể này vẫn còn ẩn mình. “Dự phóng Thi ca” mời gọi một thể điệu riêng biệt của việc “sống-ở-đời”. Đón nhận lời mời gọi ấy chính là bảo tồn tác phẩm.

 

10.3.2. “Thiết lập” như là “đặt cơ sở”

 

-    Thi Ca không phải là sự thiết lập tùy tiện mà là sự triển khai sứ mệnh vẫn còn ẩn tàng hay được “dự phóng” của một dân tộc:

 

“Vì là một sự khai quật, một sự lấy lên như thế, nên mọi sự sáng tạo là một sự khai thác (lấy nước từ nguồn). Chủ nghĩa chủ quan hiện đại quả đã lập tức ngộ giải sự sáng tạo vì chỉ hiểu nó như là thành tựu thiên tài của chủ thể tự cao tự đại. Sự thiết lập của chân lý là sự thiết lập không chỉ theo nghĩa của sự ban tặng không hoàn lại mà đồng thời còn là sự thiết lập theo nghĩa thiết lập nên căn cơ-nền móng. Sự dự phóng mang tính thi ca đến từ hư vô nếu xét trên phương diện rằng nó không bao giờ sắm sanh món quà của mình từ cái bình thường và cái có sẵn trước nay. Tuy nhiên, nó cũng không bao giờ đến từ hư vô, vì những gì được nó dự phóng chỉ là vận mệnh được lưu giữ lại của bản thân con người mang sử tính” (§167).

 

-    Phê phán “chủ nghĩa chủ quan hiện đại” là một trong những chủ đề trung tâm của tư tưởng Heidegger. Theo ông, phiên bản nổi bật nhất của “chủ nghĩa chủ quan hiện đại” chính là cách hiểu về “thuyết Hiện sinh như là một thuyết Nhân bản” của J. P. Sartre*. Trong “Lá thư về thuyết Nhân bản” (GA 9, 313-364), Heidegger khẳng định lại sự phê phán này như một hồi đáp gián tiếp cho luận văn nổi tiếng nói trên của Sartre.

 

Tác phẩm nghệ thuật đích thực - được Heidegger ẩn dụ như “múc nước tận nguồn”** - cho thấy rõ rằng nó là một quà tặng, và ở đây, là quà tặng của Đất. Nếu Kant cho rằng tác phẩm nghệ thuật hầu như là một quà tặng của Tự nhiên (một Tự nhiên vẫn còn do Thượng Đế sáng tạo), thì, với Heidegger, Đất lại gắn liền với một dân tộc đặc thù, mang sử tính.

 

10.3.3. “Thiết lập” như là “khởi đầu”

 

-    Nghệ thuật - như sự thiết lập (Stiftung/founding) - còn phải được hiểu như một sự khởi đầu mới với tất cả tính thanh tân lẫn sự phong phú của nó:

 

“Sự ban tặng và thiết lập căn cơ vốn đã trực tiếp mang theo mình cái mà ta gọi là một sự khởi đầu. Nhưng, cái trực tiếp, không có trung giới này của sự khởi đầu, cái riêng biệt của bước nhảy từ cái không thể được trung giới không loại trừ, trái lại, bao hàm điều sau đây: sự khởi đầu được chuẩn bị lâu dài nhất và hoàn toàn âm thầm. Sự khởi đầu đích thực – như là bước nhảy – bao giờ cũng là một bước nhảy tới đàng trước, trong đó mọi cái đang đến đều bị nhảy vượt qua, cho dù như là một cái gì giấu mặt. Sự khởi đầu đã kín đáo hàm chứa sự kết thúc. Thật thế, sự khởi đầu không bao giờ có sự non dại của cái sơ khai. Cái sơ khai, bởi không có bước nhảy mang tính ban tặng và thiết lập căn cơ, cũng như không có bước nhảy tới đàng trước, nên không bao giờ có tương lai. Nó không còn đủ sức tiếp tục giải phóng điều gì hết từ chính nó nữa, bởi nó không có gì trong mình ngoài những cái mà trong đó bản thân nó cũng bị cầm tù” (§168).

 

Ở đây, ta có thể nghĩ đến thành tựu của Filippo Brunelleschi (1377-1446), khởi đầu cho hội họa thời Phục Hưng bằng cách chứng minh một cách thuyết phục phương pháp viễn cận sẽ được Leone Battista Alberti (1404-1472) công bố và triển khai. Sáng tạo này xứng đáng được xem là sự khởi đầu.

 

“Sự khởi đầu đã kín đáo hàm chứa sự kết thúc”: ta có thể nghĩ đến nghệ thuật nhiếp ảnh và điện ảnh như là cao điểm của phương pháp viễn cận, và vì thế, Heidegger phân biệt giữa “sự non dại của cái sơ khai” với “sự khởi đầu đích thực”. Cái sau có tính vạch thời đại và mở ra tương lai, điều mà cái trước không thể có được:

 

“Sự khởi đầu, ngược lại, bao giờ cũng bao hàm sự phong phú chưa được khai thác của cái dị thường, nghĩa là, của sự tranh chấp với cái bình thường. Nghệ thuật – như là Thi Ca – là sự thiết lập trong nghĩa thứ ba của sự khiêu chiến của chân lý: thiết lập như là khởi đầu. Bao giờ cũng thế, khi cái tồn tại xét như cái toàn bộ đòi hỏi sự thiết lập vào trong sự Mở ngỏ như là bản thân cái tồn tại, thì nghệ thuật đạt tới bản chất sử tính của nó như là sự thiết lập. Sự thiết lập này đã xảy ra tại Phương Tây lần đầu tiên ở Hy Lạp. Những gì được gọi trong tương lai là “Tồn tại” thì đã được thiết định một cách mẫu mực thành tác phẩm. Thế rồi toàn bộ cái tồn tại đã được khai mở như thế đã được biến đổi thành cái tồn tại theo nghĩa là cái được Thượng đế sáng tạo nên. Điều này đã xảy ra vào thời Trung cổ. Rồi cái tồn tại này lại được biến đổi vào lúc bắt đầu và trong suốt thời Cận đại. Cái tồn tại đã trở thành đối tượng có thể tính toán được và có thể nhìn thấu suốt được bằng cách đo đếm. Mỗi thời kỳ, một Cõi sống mới mẻ và căn cơ lại ra đời. Và mỗi lần như thế, sự mở ngỏ của cái tồn tại phải được thiết lập trong bản thân cái tồn tại bằng sự cố định hóa chân lý ở trong hình thể. Mỗi lần như thế đã xảy ra sự không-che giấu của cái tồn tại. Sự không-che giấu thiết định chính mình thành tác phẩm, một sự thiết định được hoàn thành bằng nghệ thuật” (§169).

 

Đoạn cuối của §169: “Mỗi thời kỳ, một Cõi sống mới mẻ và căn cơ lại ra đời… Sự không-che giấu thiết định chính mình thành tác phẩm, một sự thiết định được hoàn thành bằng nghệ thuật” đề ra luận điểm khá độc đáo về lịch sử nghệ thuật: phải chăng phương pháp viễn cận trong hội họa thời Phục Hưng là “cội nguồn” hay “tiền thân” của phương pháp triết học lấy chủ thể làm trung tâm Descartes? Ta cũng có thể nói như thế về mối quan hệ giữa nghệ thuật và các hình thái tư tưởng trong lịch sử? Chẳng hạn, những thử nghiệm và thành tựu của nghệ thuật hậu-hiện đại là tiền đề cho tư duy hậu-hiện đại*.

 

-    Heidegger tóm lược việc hiểu nghệ thuật như là sự khởi đầu mới mẻ bằng những nhận định khái quát:

 

“Mỗi khi nghệ thuật xảy ra, nghĩa là, mỗi khi có sự khởi đầu, thì một sự thôi thúc đi vào trong lịch sử; lịch sử bắt đầu hoặc bắt đầu trở lại. Lịch sử ở đây không có nghĩa là một sự tiếp diễn trong thời gian của những sự cố đủ mọi loại, cho dù là sự cố quan trọng. Lịch sử là việc đưa một dân tộc vào trong nhiệm vụ của mình như là đưa vào sự ban tặng của dân tộc ấy” (§170).

 

-    Lịch sử, theo Heidegger, là có tính thời đại. Thời đại liên quan đến sự thiết lập: một sự thiết lập như thế đưa những người bảo tồn ra khỏi Cõi sống cũ để bước vào Cõi sống mới. Và, một lần nữa, Heidegger nhấn mạnh tầm quan trọng của nghệ thuật đối với tiến trình mang tính thời đại này: “Nghệ thuật là lịch sử trong nghĩa căn cơ, rằng nó thiết lập nền tảng cho lịch sử” (cuối §171).

 

10.4. Nghệ thuật như là Nguồn gốc (§§172-178)

 

-    Bây giờ, ở cuối chặng đường, Heidegger lại quay trở về lại với chỗ khởi đầu, đặc biệt với nhan đề của luận văn: là một sự khởi đầu, tác phẩm nghệ thuật là bước nhảy căn nguyên, là Ur-sprung/primordial leap, giống như nguồn suối đến từ lòng Đất là căn nguyên của sông hồ, biển cả (giống như dòng sông Rhine, qua tụng ca nổi tiếng của Hölderlin và được Heidegger dành phần lớn thời lượng khóa giảng mùa đông 1934/1935 để diễn giải):

 

“Nghệ thuật để cho chân lý nảy sinh. Nghệ thuật, như là sự bảo tồn và thiết lập, làm nảy sinh chân lý của cái tồn tại ở trong tác phẩm. Nảy sinh cái gì đó bằng một bước nhảy, mang cái gì đó vào trong sự Tồn tại từ nguồn suối nguyên lai của bản chất của nó bằng một bước nhảy thiết lập, đó chính là gì điều mà chữ “nguồn suối”, “nguồn gốc” (Ursprung/Origin) muốn nói” (§172).

 

Nghệ thuật là nguồn gốc hay nguồn suối của tác phẩm nghệ thuật, bởi về bản chất, nghệ thuật là nguồn gốc của cả người sáng tạo lẫn kẻ bảo tồn. Với tư cách ấy, nghệ thuật thiết yếu mang sử tính.

 

-    Để kết luận, Heidegger nhấn mạnh đến tính cách “chuẩn bị sơ bộ” của luận văn này. Công cuộc tìm hiểu về nghệ thuật cho phép ta tra vấn sâu xa hơn về thế nào là nghệ thuật đích thực cho thời đại chúng ta hiện nay:

 

“Sự tra vấn như thế không có năng lực cưỡng bức nghệ thuật và sự trở thành của nó. Nhưng, cái Biết mang tính tra vấn này là sự chuẩn bị sơ bộ và, do đó, không thể thiếu được cho sự trở thành của nghệ thuật. Chỉ có một cái Biết như thế mới chuẩn bị không gian cho tác phẩm, con đường cho người sáng tạo và chỗ đứng cho người bảo tồn” (§175).

 

Ông gọi “cái Biết có tính phản tỉnh” (dieses besinnliche Wissen/this reflective knowledge) này là sự chuẩn bị “không thể thiếu được” cho “không gian của tác phẩm, con đường cho người sáng tạo và chỗ đứng cho người bảo tồn”. Tại sao lại “không thể thiếu được”?

 

-    Câu trả lời đã được gợi ý khi Heidegger nói về “thời hiện đại” của chúng ta, nơi đó “cái tồn tại đã trở thành đối tượng có thể tính toán được và có thể nhìn thấu suốt bằng cách đo đếm” (§169). Trong chừng mực ấy, ta đã đánh mất và không nhìn ra Đất. Nhận ra điều ấy không chỉ thiết yếu cho tương lai của nghệ thuật mà cả cho tương lai của chính chúng ta, để bản thân con người không bị lạm dụng và bị nhìn chỉ như là “vật liệu” cho nền đại sản xuất công nghiệp.

 

-    Heidegger kết thúc luận văn bằng hai câu hỏi:

 

1. “Trong cái Biết chỉ có thể tăng tiến chậm chạp như thế, ta mới quyết định được việc nghệ thuật có thể là một nguồn suối, một nguồn gốc hay không, và, rồi nó có phải là một bước nhảy tới đàng trước chăng hay mãi mãi chỉ là một phụ lục, có thể được mang theo như một hiện tượng văn hóa đã trở nên quá bình thường?” (§176).

 

2. “Phải chăng trong sự hiện hữu của mình, chúng ta tồn tại một cách sử tính nơi nguồn suối? Ta có biết không, nghĩa là, có lưu ý chăng đến bản chất của nguồn suối, nguồn gốc? Hay là, trong sự hành xử của ta đối với nghệ thuật, ta chỉ còn biết cầu viện tới một kiến thức được đào tạo về cái đã qua?” (§177).

 

Hai câu hỏi đều xoay quanh một nỗ lực: kêu gọi chúng ta nhớ lại nguồn gốc của sự hiện hữu của mình. Để thật sự mở ngỏ cho sự sáng tạo, cần phải mở ngỏ trước “vết nứt” giữa Cõi sống và Đất mà nghệ thuật khai mở. Mở ngỏ trước “vết nứt” cũng là mở ngỏ trước tính vô ước (không thể đo lường và so sánh) giữa Cõi sống và Đất và cũng là trước tính vô ước giữa lý tính và thực tại. “Nghệ thuật lớn”, theo cách hiểu của Heidegger, mời gọi ta từ bỏ “bức tranh hiện đại về thế giới” (xem lại 2.3). Liệu ta có dám đón nhận lời mời gọi ấy?

 

-    Heidegger đặt người đọc trước sự lựa chọn: hoặc là-hoặc là:

 

“Đối với cái “hoặc là-hoặc là” này là sự quyết định lựa chọn, có một dấu hiệu không thể nghi ngờ. Hölderlin, Thi sĩ – mà tác phẩm của ông vẫn còn đối diện với người Đức như một thử thách – đã gọi tên điều ấy khi nói:

 

“Schwer verläbt

  Was nahe dem Urprung wohnet, den Ort”

Die Wanderung/Du hành IV, 167

[“Những gì cư lưu gần Nguồn cội rất ngại ngần khi rời bỏ Nơi Chốn ấy”] (§178).

 

Heidegger mong mỏi “người Đức” phải trở thành những người bảo tồn Thi ca Friedrich Hölderlin (1770-1843) (khuôn mặt trung tâm của phong trào lãng mạn Đức và là một trong những nhà tư tưởng có ảnh hưởng lớn nhất trong triết học duy tâm Đức, cùng với Schelling và Hegel). Hölderlin được Heidegger hiểu như là “thi sĩ của thi sĩ” ở hai bước phát triển: thi sĩ như là triết gia và triết gia như là thi sĩ*. Theo đó, Hölderlin không chỉ cần cho nước Đức mà cho cả thời hiện đại, bởi thời hiện đại là “thời khốn khó” (dürftige Zeit/needy age): thời đại trải nghiệm “cái chết” của Thượng đế và đánh mất ý nghĩa của cái “linh thiêng”.

 

-    Sự lựa chọn “hoặc là-hoặc là” ở cuối luận văn gián tiếp nói về sự lựa chọn giữa Hegel và Hölderlin: hoặc là triết gia với ý thức minh bạch về tính khả niệm (intelligibility) của lý tính và thực tại, hoặc là thi sĩ mơ mộng tin vào tính vô ước (incommensurability) giữa chúng và mơ về một tính linh thiêng đã mất.

 

Trong “Andenken” (“Quy tưởng”), Heidegger đã chọn Hölderlin, chọn “sự mơ mộng” (Traum) như là “bài thơ bất khả ngôn về cái linh thiêng” (unvordichtbares Gedicht des Heiligen). “Thi sĩ phải nói lên bài thơ này. Thi sĩ Mơ giấc Mơ khi lắng nghe bài thơ này” (“Dieses Gedicht müssen die Dichter sagen. Auf dieses Gedicht hörend Träumen sie den Traum” (GA4, 113-114)). “Bất Khả ngôn” là “bài thơ” thương thông với chính mình trong sự thinh lặng: sự thinh lặng mang Thi sĩ ra khỏi Cõi sống quen thuộc thường nhật, ra khỏi cảm quan thông thường, để trở nên “gần gũi với cái linh thiêng”.

 

-    “Cái linh thiêng” được Heidegger hiểu như Tồn tại được trải nghiệm với đầy đủ sức mạnh tích hợp. Để thực sự có năng lực tích hợp, cái linh thiêng lẽ ra phải thể hiện trong một cái tồn tại nhất định, là một thần linh hay một Thượng đế nào đó. Nhưng, Hölderlin lại không thể gọi tên: “Ta thiếu những tên gọi linh thiêng”. Thiếu, bởi thời đại chúng ta tưởng như không còn có chỗ cho Thượng đế hay Thần linh, nhưng, không thể vì thế mà thay vào đó bằng những ngẫu tượng mới. Ta chỉ có thể “dọn mình” cho sự “lai đáo” ấy bằng cách lắng nghe “bài thơ vô ngôn về cái linh thiêng” trong lời của Thi sĩ. Trong “thời đại khốn khó”, sự lắng nghe này lại càng cần thiết để ngôi nhà ta đang cư trú không còn ngột ngạt nữa.

 

 



([1]) Kant, Phê phán năng lực phán đoán, §49, Bùi Văn Nam Sơn dịch và chú giải, NXB Tri thức, 2007, tr. 274 và tiếp.

* Xem: Jean-Paul Sartre: Thuyết hiện sinh là một thuyết nhân bản, Đinh Hồng Phúc dịch, Lời bạt của Bùi Văn Nam Sơn: Hai nẻo đường của thuyết nhân bản, NXB Tri thức 2016.

** Heidegger chơi chữ: “Schöfen” trong tiếng Đức có nghĩa là “sáng tạo”, đồng thời có nghĩa đen là “múc nước tận nguồn”.

* Bùi Văn Nam Sơn: Lyotard với tâm thức và hoàn cảnh hậu-hiện đại, Lời giới thiệu cho F. Lyotard: Hoàn cảnh hậu-hiện đại, Ngân Xuyên dịch, NXB Tri thức, 2007.

* Bùi Văn Nam Sơn: Triết gia và Thi sĩ, Trò chuyện triết học, tập 4, NXB Tri thức, 2017, tr. 165.

 

Ý KIẾN BẠN ĐỌC

Mọi liên lạc và góp ý xin gửi về: dinhhongphuc2010@gmail.com.
Bản quyền: www.triethoc.edu.vn
Chịu trách nhiệm phát triển kỹ thuật: Công ty TNHH Công Nghệ Chuyển Giao Số Việt