Chủ nghĩa Marx

Phép siêu hình của khoa kinh tế chính trị: Phương pháp - Nhận xét thứ tư

SỰ KHỐN CÙNG CỦA TRIẾT HỌC – MỤC LỤC

 

CHƯƠNG HAI

PHÉP SIÊU HÌNH

CỦA KHOA KINH TẾ CHÍNH TRỊ

 

§I. PHƯƠNG PHÁP

 

Nhận xét thứ tư

 


C.Mác và Ph. Ăng-ghen Toàn tập, tập 4. Nxb. Chính trị quốc gia – Sự thật, Hà Nội, 1995. | Phiên bản điện tử: tulieuvankien.dangcongsan.vn


 

 

Bây giờ, chúng ta hãy xem khi ông Pru-đông ứng dụng phép biện chứng của Hê-ghen vào khoa kinh tế chính trị, ông ta đã sửa đổi phép biện chứng ấy như thế nào?

Đối với ông ta, ông Pru-đông, thì bất cứ phạm trù kinh tế nào cũng có hai mặt, một mặt tốt, một mặt xấu. Ông ta xem xét các phạm trù như người tiểu tư sản xem xét những vĩ nhân của lịch sử: Na-pô-lê-ông là một vĩ nhân: ông ta đã làm nhiều việc tốt, nhưng ông ta cũng đã làm nhiều việc xấu.

Đối với Pru-đông, mặt tốt mặt xấu, lợi hại, đều nhập cục lại, họp thành mâu thuẫn vốn có trong mỗi phạm trù kinh tế.

Vấn đề giải quyết: giữ lại mặt tốt và loại bỏ mặt xấu. Chế độ nô lệ là một phạm trù kinh tế như mọi phạm trù khác. Vậy thì nó cũng có hai mặt của nó. Hãy để mặt xấu đấy và chúng ta hãy nói đến mặt tốt của chế độ nô lệ. Dĩ nhiên là chỉ nói đến chế độ nô lệ trực tiếp, chế độ nô lệ của người da đen ở Xu-ri-nam, ở Bra-xin, ở những bang miền Nam của Bắc Mỹ.

Chế độ nô lệ trực tiếp là cơ sở của công nghiệp của giai cấp tư sản, cũng giống như máy móc, tín dụng, v.v.. Không có chế độ nô lệ thì không có bông; không có bông thì không có công nghiệp hiện đại. Chính chế độ nô lệ đã làm cho các thuộc địa có giá trị của chúng, chính các thuộc địa đã tạo ra thương mại của thế giới, chính thương mại của thế giới là điều kiện cần thiết của đại công nghiệp. Cho nên chế độ nô lệ là một phạm trù kinh tế quan trọng bậc nhất.

Không có chế độ nô lệ thì Bắc Mỹ, xứ sở tiến bộ nhất, sẽ biến thành xứ sở của chế độ gia trưởng. Hãy xóa Bắc Mỹ trên bản đồ thế giới đi, người ta sẽ thấy trạng thái vô chính phủ, sự suy sụp hoàn toàn của thương mại hiện đại và của văn minh hiện đại. Xoá bỏ chế độ nô lệ có nghĩa là xóa bỏ Bắc Mỹ trên bản đồ các dân tộc1).

Cho nên, chế độ nô lệ, vì nó là một phạm trù kinh tế, đã luôn luôn tồn tại trong các thiết chế của các dân tộc. Các dân tộc hiện đại chỉ biết nguỵ trang chế độ nô lệ trong nước họ mà thôi, nhưng họ đã áp đặt chế độ nô lệ không chút nguỵ trang cho thế giới mới.

Ông Pru-đông đã làm như thế nào để cứu chế độ nô lệ? Ông ta sẽ đặt vấn đề: giữ lại mặt tốt của phạm trù kinh tế ấy, loại bỏ mặt xấu của nó.

Hê-ghen không có vấn đề để đặt ra. Ông ấy chỉ có phép biện chứng. Ông Pru-đông chỉ có ngôn ngữ của phép biện chứng của Hê-ghen mà thôi. Vận động biện chứng của ông ta, chính là sự phân biệt một cách giáo điều mặt tốt và mặt xấu.

Chúng ta hãy tạm coi bản thân ông Pru-đông là một phạm trù. Chúng ta hãy xét mặt tốt và mặt xấu của ông ta, mặt hơn và mặt kém của ông ta.

Nếu như ông ta có mặt hơn Hê-ghen ở chỗ là đề ra những vấn đề mà ông ta tự dành cho mình quyền giải quyết vì lợi ích cao nhất của loài người, thì ông ta lại có mặt kém là khi phải sản sinh ra, bằng công việc sản sinh biện chứng, một phạm trù mới thì ông ta lại mắc cái chứng mất năng lực sản sinh. Cái cấu thành bản chất của sự vận động biện chứng, chính là sự cùng nhau tồn tại của hai mặt mâu thuẫn, sự đấu tranh giữa hai mặt ấy và sự dung hợp của hai mặt ấy thành một phạm trù mới. Chỉ với việc tự đề ra cho mình vấn đề loại bỏ mặt xấu, người ta cũng đã chặn đứng sự vận động biện chứng rồi. Không phải là phạm trù đang tự đề ra và tự đối lập với bản thân nó, do bản chất mâu thuẫn của nó, mà chính là ông Pru-đông đang xúc động, vùng vẫy, giãy giụa giữa hai mặt của phạm trù.

Bị hãm như vậy trong một con đường cụt mà ông ta khó lòng thoát ra khỏi bằng những thủ đoạn hợp pháp, ông Pru-đông liền gắng sức một cách tuyệt vọng nhảy thẳng một bước đến một phạm trù mới. Chính bấy giờ là lúc mà cái chuỗi trong lý tính lộ ra trước con mắt ngạc nhiên của ông ta.

Ông ta vớ lấy cái phạm trù mà ông ta bắt gặp trước hết và ông ta tùy tiện gán cho nó cái đặc tính là chữa được những mặt kém của phạm trù cần phải làm cho trong sạch. Như vậy, nếu cứ tin vào ông Pru-đông thì thuế má chữa được những mặt kém của độc quyền; cán cân thương mại chữa được những mặt kém của thuế má; quyền sở hữu ruộng đất chữa được những mặt kém của tín dụng.

Bằng cách xem xét như vậy những phạm trù kinh tế, xem xét dần dần từ cái nọ đến cái kia, từng cái một, và bằng cách lấy phạm trù này làm thuốc giải độc cho phạm trù kia, ông Pru-đông đi đến chỗ tạo ra được, bằng cái mớ hỗn hợp những mâu thuẫn và thuốc giải độc cho những mâu thuẫn ấy, hai tập đầy mâu thuẫn mà ông ta gọi một cách đúng đắn là: "Hệ thống những mâu thuẫn kinh tế".

 

 


1) Điều này hoàn toàn đúng với năm 1847. Hồi đó việc buôn bán giữa Hợp chúng quốc với thế giới còn lại chỉ giới hạn chủ yếu trong việc nhập khẩu những dân di cư và sản phẩm công nghiệp và trong việc xuất nhập khẩu bông và thuốc lá, tức là những sản phẩm của lao động nô lệ ở miền Nam. Các bang miền Bắc sản xuất chủ yếu là ngũ cốc và thịt cho các bang chiếm hữu nô lệ. Việc xoá bỏ chế độ nô lệ có thể thực hiện được từ khi miền Bắc bắt đầu sản xuất ngũ cốc và thịt để xuất khẩu và ngoài ra đã biến thành một nước công nghiệp, còn độc quyền về bông của Mỹ thì vấp phải một sự cạnh tranh mạnh mẽ từ phía Ấn Độ, Ai Cập, Bra-xin, v. v.. Vả lại, ngay hồi bấy giờ, hậu quả của sự xóa bỏ đó là sự phá sản của miền Nam, miền này đã không thay thế được chế độ nô lệ công khai đối với người da đen bằng chế độ nô lệ giấu mặt đối với những người cu-li Ấn Độ và Trung Quốc - Ph. Ă (Chú thích của Ăng-ghen cho lần xuất bản bằng tiếng Đức năm 1885)

 

 

Ý KIẾN BẠN ĐỌC

Mọi liên lạc và góp ý xin gửi về: dinhhongphuc2010@gmail.com.
Bản quyền: www.triethoc.edu.vn
Chịu trách nhiệm phát triển kỹ thuật: Công ty TNHH Công Nghệ Chuyển Giao Số Việt