Triết học Đông phương

Dẫn vào Duy thức học. 5. Thành Duy thức luận

 

DẪN VÀO DUY THỨC HỌC


TUỆ SỸ

1 2 3 4 5

 

5. THÀNH DUY THỨC LUẬN

Thành duy thức luận, Hán dịch bởi Huyền Trang, là bản luận giải chi tiết Tam thập luận. Bài tựa của Khuy Cơ, viết cho Thành duy thức luận thuật ký, nói Duy thức Tam thập luận là một trong mười chi luận của Du-giàThế Thân cô đọng tất cả tinh hoa tư tưởng của ngài về giáo nghĩa Duy thức để viết tác phẩm này. Chỉ mới viết xong phần thi tụng mà chưa kịp viết văn trường hàng giải thích, ngài đã thị tịch. Đương thời chỉ có hai vị đại luận sư là Thân Thắng và Hỏa Biện viết Tụng thích. Về sau, có thêm tám vị nữa viết Tụng thích. Mười vị luận sư sớ giải này, cùng với quan điểm của mỗi vị, thường xuyên được dẫn trong Thành duy thức luận.

Tiểu sử mười vị Luận sư này được Khuy Cơ giới thiệu khá chi tiết trong Thành duy thức luận ký. Dưới đây tóm lược tiểu sử, theo Thuật ký.(79)

1. Đạt-ma-ba-la 達磨波羅 (Dharmapāla): Hộ Pháp 護法 (Tl. 530-561); con vua nước Đạt-la-tì-trà (Draviḍa), thành Kiến-chí (Kañcipura). Mất năm 32 tuổi, tại chùa Đại bồ-đề.(80)

2. Củ-noa-mạt-để (Guṇamati) 寠拏末底: Đức Huệ 德慧 (Tl. 420-500), nguyên là thầy của An Huệ. Theo Phật giáo sử của Taranatha (Tây-tạng), Đức Huệ và An Huệ đều là đệ tử theo học Đức Quang.

3. Tất-sỉ-la-mạt-để 悉恥羅末底 (Sthiramati: An Huệ安慧 (470-550), người Nam Ấn, nước La-la thuộc hàng tiên đức của Hộ Pháp. Ngài chú giải khá nhiều tác phẩm của Thế Thân.

4. Bạn-đồ-thất-lị 畔徒室利 (Bandhuśrī): Thân Thắng親勝 (tk. 5), đồng thời với Thế Thân, người đầu tiên viết Tụng thích.

5. Nan-đà難陀 (Nanda): Hoan Hỷ歡喜 (450-530), học thuyết được truyền thừa xuống Thắng Quân. Có lẽ thuộc hàng tiền bối của Hộ Pháp.(81)

6. Thú-chiến-đạt-la戍陀戰達羅 (Śuddhacandra): Tịnh Nguyệt淨月(tk. 6), đồng thời với An Huệ.

7. Chất-đát-ra-bà-noa質呾羅婆拏 (Citrabhāṇa): Hỏa Biện火辨 (tk. 5), đồng thời với Thế Thân.

8. Tì-thế-sa-mật-đa-la毘世沙蜜多羅 (Viśṣeṣamitra): Thắng Hữu勝友 (cuối tk. 6)

9. Thần-na-phất-đa-la辰那弗多羅 (Jinaputra): Tối Thắng Tử 最勝子 (cuối tk. 6)

10. Nhã-na-chiến-đạt-la若那戰達羅 (Jñānacandra): Trí Nguyệt智月(cuối tk. 6).

Theo chính tường thuật của Khuy Cơ trong Chưởng trung xu yếu,(82) ban đầu Huyền Trang định dịch tất cả mười bản sớ giải ấy, giao cho bốn vị đệ tử là Thần PhưởngGia ThượngPhổ Quang, và Khuy Cơ nhuận sức và bút thọ. Sau vài hôm, Khuy Cơ xin rút lui. Huyền Trang vặn hỏi lý doKhuy Cơ cho rằng toàn bộ quá dài không thể nắm hết ý nghĩa, đề nghị rút gọn lại thành một bộ. Huyền Trang đồng ý, bèn tóm thâu ý nghĩa của mười bản luận giải thành một, chia làm mười quyển.

Nói là tóm thâu tinh nghĩa của mười bản luận giải, nhưng giải thích chủ yếu trong đây là quan điểm của Hộ Pháp.

Huyền Trang vừa dịch, vừa giảng những điểm quan trọng trong đó. Khuy Cơ thâu thập và sau đó viết thành bản sớ giải làm nền tảng cho các nghiên cứu về Thành duy thức luận tại Trung Hoa, cũng như Nhật Bản. Bản sớ giải tựa đề là Thành duy thức luận thuật ký. Bản dịch Việt của Thành duy thức luận này phần lớn cũng thâu thập các dữ liệu từ trong bản Thuật ký này để hiểu rõ hơn chính văn.

Sau Thuật kýKhuy Cơ cũng viết thêm Thành duy thức luận chưởng trung xu yếu, 2 quyển, bổ túc một số luận điểm còn nghi ngờ trong Thuật ký. Các môn hạ của Khuy Cơ trong đó đáng kể là Huệ Chiểu và Trí Châu cũng viết hai bản sớ giải quan trọng, giải thích rộng những điều chưa được rõ trong Thuật ký. Đây là những tài liệu tham khảo quan trọng cho những công trình muốn nghiên cứu chi tiết Thành duy thức luận.

Ngoài ra, đương thời còn có Viên Trắc, cùng học Duy thức với ngài Huyền Trang, soạn Thành duy thức luận sớ, 10 quyển(83) trong đó nhiều đoạn chỉ trích Khuy Cơ giải thích sai lầm.(84) Viên Trắc lập thành một hệ Pháp tướng tông đối nghịch với Khuy Cơ. Nhưng hệ này thất truyền, và Thành duy thức luận sớ của Viên Trắc cũng thất lạc, chỉ có thể tìm thấy phiến đoạn trong các dẫn chứng.(85)

Về ý nghĩa tựa đề Thành duy thức, như được giải thích bởi chính luận trong đoạn cuối, phần kết luận. Luận nói:

“Luận này gồm có ba phần để thành lập duy thức, do đó nói là luận Thành duy thức. Luận này cũng được nói là có tên Tịnh duy thức, vì sự diễn giải lý duy thức cực kỳ trong sáng. Luận gốc của nó gọi là Duy thức tam thập, do ba mươi bài tụng trình bày lý duy thức đến mức hoàn hảo, không nhiều hơn hay ít hơn.”

Như vậy, luận này cũng còn có tên gọi khác nữa, là Tịnh duy thức luận. Nói “diễn giải … cực kỳ trong sáng” là giải rõ ý nghĩa từ tịnh. Theo đó, tịnh ở đây có nghĩa là minh tịnh, tức Sanskrit prasannaHình dung từ này cũng được Candrakīrti (Nguyệt Xứng) dùng để đặt tên cho bản chú giải Căn bản Trung luận (Mūlamadhyamakakārikā) của mình: PrasannapadāTịnh minh cú luận. Vậy, tên Sanskrit có thể được đề nghị cho Tịnh duy thức luận là Vijñaptimātraprasāda-śāstra.

T.S.

(Đạo Phật ngày nay | thuvienhoasen.org)



(79) Thuật ký, quyển 1, T43n1830, tr. 231b27-232a13.

(80)  Tiểu sử chi tiết, xem Đại Đường Tây vực ký, quyển 10, T51n2087, tr. 931b29.

(81) Cf. Lữ TrừngẤn-độ Phật giáo nguyên lưu lược giảngLữ Trừng Phật học luận trước tuyển tập, tập 4, tr. 2221.

(82) Khuy Cơ, Thành duy thức luận Chưởng trung xu yếu, quyển 1, T43n1831, tr. 608c.

(83) Các bản sớ giải về Thành duy thức đều lấy số quyển chính của bản dịch Huyền Trang làm chuẩn.

(84) Các sớ giải Thành duy thức của Nhật bản, như Duy thức nghĩa đăng tăng minh ký của Thiện Châu (T65n2261), Duy thức luận đồng học sao của Lương Toán (T66n2263), Thành duy thức luận lược sao của Phổ Tịch (T68n2267), …, đại khái đều ủng hộ quan điểm của Viên Trắc.

(85) Ảnh hưởng của Viên Trắc đương thời khá lớn, Võ Tắc Thiên rất tôn sùng, được thỉnh cử làm vị chứng nghĩa trong dịch trường của Địa-bà-ha-la. Trong số các sáng tácGiải thâm mật kinh sớ được dịch sang tiếng Tây tạng, và được Tsong-kha-pa dẫn chứng khá nhiều (Draṅ ṅes legs bśad sñiṅ po: Biện liễu bất liễu nghĩa luận). Nguyên quán Tân-la tức Triều tiên ngày nay. Có lẽ do bởi óc kỳ thị và tính kiêu ngạo Hán tộc mà những sáng tác của ngài bị thất truyền; sử truyện Phật giáo Trung hoa viết về ngài cũng chứa rất nhiều xuyên tạc. Sử liệu đáng tin tưởng là bia khắc大周西明寺故大德圓測法師舍利塔銘并序 do Cống sỹ Tống Phục宋復soạn, khoảng Tl 1115, đời vua Tống Huy TôngNghiên cứu chi tiết, xem Dương Bạch YViên Trắc chi nghiên cứu – truyện ký cập kỳ tư tưởng đặc sắc, Hoa cương Phật học báo, số 6, 1983.

 

 

Ý KIẾN BẠN ĐỌC

Mọi liên lạc và góp ý xin gửi về: dinhhongphuc2010@gmail.com.
Bản quyền: www.triethoc.edu.vn
Chịu trách nhiệm phát triển kỹ thuật: Công ty TNHH Công Nghệ Chuyển Giao Số Việt