Quan niệm của Hegel về chân lý nhất quán với các phương diện khác trong tư duy của ông: Chân lý của cái gì đó, dù là của tư tưởng hay sự vật, không tách bạch với giá trị hay ý nghĩa của nó. Một tác phẩm nghệ thuật “đúng thật/đích thực” cũng ipso facto là một tác phẩm hay, đẹp.
Khái niệm Substanz ở Hegel giữ một vai trò quan trọng trong nghiên cứu của ông về PHÁP QUYỀN và ĐỜI SỐNG ĐẠO ĐỨC. Một cộng đồng xã hội hay chính trị không thể chỉ gồm những chủ thể, những cá nhân luôn biết phản tư trong tư tưởng
Đối với Husserl, thuật ngữ “sự/tính nội tại” có nhiều nghĩa. Nó chủ yếu được dùng để chỉ phương cách trong đó ý thức, những kinh nghiệm sống trải và những đối tượng ý hướng được hiểu sau khi đã được giảm trừ hiện tượng học.
Cách hiểu của Kant về giáo hội có thể được đặt trong ngữ cảnh rộng của khoa giáo hội học Tin lành. Điều này trước hết liên quan đến những vấn đề về mối quan hệ giữa giáo hội với những tín đồ và với nhà nước. Cách xử lý của Kant về hai vấn đề này trong TG và SHHĐL cho thấy
Sự phân biệt giữa tính toán học và tính năng động còn có tầm ý nghĩa trong “Phân tích pháp về cái Cao cả” trong PPNLPĐ, ở đó sự khác biệt của “cái toán học” và “cái năng động” thay chỗ cho “bảng các phạm trù” được sử dụng trong “Phân tích pháp về cái Đẹp”.
Với Platon, sự minh triết là đức hạnh dành riêng cho lý tính, dùng để điều hành Nhà nước (Rep., 586-587, 589-592). Với Aristote, “Sự minh triết là một khoa học có đối tượng là các nguyên nhân chắc chắn và các nguyên tắc chắc chắn.” (Met., A, I, 982a). Quan niệm theo cấp so sánh cao nhất về vấn đề này : nhà hiền triết, một mặt là người có được tri thức rộng hơn người khác, và mặt khác là người có khả năng nhận thức được các sự vật khó lĩnh hội đối với người thường.” (Met., A, 2)
Trong khuôn khổ phê phán ý niệm về ‘sự trùng hợp của một nhận thức với đối tượng của nó’ mang một ý nghĩa mới, đặc biệt là dưới ánh sáng tỏ tiên đề cơ sở của nó phát biểu rằng ‘những điều kiện cho khả thể của kinh nghiệm nói chung cũng đồng thời là những điều kiện cho khả thể của những đối tượng của kinh nghiệm’
Platon, là người rất hay dùng chữ archê, đã đưa ra một định nghĩa về chữ này trong quyển Phèdre (245 tcn): “Nguyên tắc, đó là cái Không-được-sinh-ra (agênéton); vì tất cả những gì đang tồn tại đều tất yếu phải xuất phát từ cái nguyên tắc ấy, tức cái nguyên tắc không xuất phát từ bất cứ cái gì.” Do đó nó là cái hiện hữu đầu tiên hết, và sản sinh ra một loạt các tồn tại khác.
Sau Kant, mỹ học trở thành trung tâm của triết học Đức. Trước hết, Schiller, nhất là trong GDTN (một tác phẩm được Hegel rất ngưỡng mộ), cho rằng cái đẹp là khách quan và việc chiêm ngưỡng nó sẽ điều trị được sự THA HÓA đang gây khổ đau cho con người hiện đại
Chữ “faculty” trong tiếng Anh dịch cả hai ý tưởng khác nhau nơi Kant: ý tưởng thứ nhất biểu thị một bộ phận trong cơ cấu của một trường đại học, ý tưởng thứ hai biểu thị một tiềm năng hay sức mạnh để thực hiện một mục đích nào đó
Ousia là một thể từ được rút ra từ chữ ousa, phân từ giống cái của động từ eïnaï : tồn tại. Giống trung của phân từ này là on : cái đang tồn tại, cái tồn tại. Vì thế, chữ ousia có nghĩa là cái đang tồn tại, cái hiện hữu thực sự ở bên ngoài tư tưởng của chúng ta.
Những bàn luận chính của Kant về tài năng thiên bẩm nằm trong trong NLH và PPNLPĐ (§§46-50). Đặc điểm chính yếu của tài năng thiên bẩm, theo Kant, là tính độc đáo, theo đó, thiên tài là một “người sử dụng tính độc đáo và từ chính mình tạo ra những gì mà thông thường phải được học dưới sự hướng dẫn của những người khác”
Thuật ngữ này, có gốc từ chữ sophos (sự hiền minh), thoạt đầu dùng để chỉ người tinh thông lão luyện. Nhưng trái với chữ sự hiền minh vốn có được nghĩa ca ngợi, chữ biện sĩ/ nhà nguỵ biện đến thế kỷ V tcn lại khoác lấy một ý nghĩa xấu do sự lạm dụng của các nhà tư tưởng như: Gorgias, Protagoras, Hippias, Prodicos, Thrasymaque, Polos, Euthydème, Dionysodore.
Kant trình bày một nghiên cứu hoàn toàn thế tục và có tính khế ước về bí tích hôn nhân trong Kitô giáo, đưa hôn nhân vào danh mục “các quyền đối với nhân thân tương tự như các quyền đối với vật” . Nhóm các quyền tư pháp này bao hàm “việc sở hữu một đối tượng bên ngoài như một vật và việc sử dụng nó như một nhân thân”
Kant xem sự nghịch lý như là một “cuộc thử nghiệm có tính quyết định, là sự thử nghiệm nhất thiết phải phơi bày ra bất cứ sai lầm nào đang ẩn giấu trong những giả định của lý tính” (SL §52b). Ông xem sự phát hiện ra nghịch lý lý thuyết của các ý niệm vũ trụ học,
Các phương cách nhận thức này cho thấy có mối quan hệ cặp đôi giữa những cái tương tự nhau: cái thấy được (đối tượng của thường kiến) là hình ảnh của cái khả niệm (đối tượng của khoa học); các hình ảnh (đối tượng của sự phỏng đoán) là những sự mô phỏng về các thực tại khả giác; các quan niệm (đối tượng của dianoïa) là những sự mô phỏng về các Bản chất vĩnh hằng.